Đường Trần Quang Khải nhìn về hướng Cầu Bông năm 1966. - Nguồn: David J. Glazener Collection.
Dài non một cây số vắt ngang qua chân cầu Bông và cầu Kiệu, đường Trần Quang Khải61 tựa như đất “phên giậu” của Quận 1 trước ba quận liền kề (Quận 3, Phú Nhuận, Bình Thạnh) với những địa danh quen thuộc một thời như hẻm Văn Hiến, xóm Chùa, xóm Cầu tiêu, kinh Nhiêu Lộc… Một đồng nghiệp của tôi nhận xét: “Con đường như một TP. HCM thu nhỏ: có nhà cao tầng ngất ngưởng và có mảnh nylon lạc xoong vỉa hè; bà con lao động chắt chiu từng đồng và kẻ đổ tiền theo suối… bia ôm; phố vi tính bên hẻm không tên…”.
61 Thuộc Phường Tân Định, Quận 1.
Duyên kiếp “dân tứ xứ - đất ngoài rìa”
“Nhà cao tầng ngất ngưởng” mà người đồng nghiệp ở trên nhắc đến chính là một khách sạn 11 tầng, vốn là tòa nhà cao nhất trên đường Trần Quang Khải. Không lâu sau, khách sạn này đã bị chính quyền thành phố ra quyết định dỡ bỏ đến quá một nửa số tầng vì vi phạm chiều cao cho phép trong giấy phép xây dựng. Thế nhưng, ngay đối diện “cao ốc” này, những cư dân hẻm 102 (rộng chưa tới một mét) hằng ngày vẫn bày bán trên vỉa hè đủ mọi thứ trên đời mà không rõ đã qua mấy đời chủ: giày dép, xăng-đan, bù-loong ốc vít, kính gọng vàng (giả), băng cát-xét… Cảnh tượng cứ như những ngày mới vừa sau giải phóng.
“Đất ngoài rìa - dân tứ xứ mà”, anh Lê Quang Phong - một cư dân sống hơn nửa thế kỷ tại hẻm 68 nói tưởng như đùa nhưng lại rất chính xác.
Thật vậy, vùng đất này hàng trăm năm trước vốn nằm rìa của những công trình quan trọng xưa. Trên tấm bản đồ do Trần Văn Học vẽ năm 1815, ta đã thấy thấp thoáng hình dáng một con đường suýt soát với một đoạn lũy cổ Bán Bích bằng đất do quan điều khiển Đàm An hầu Nguyễn Cửu Đàm sai đắp từ 1772 bao quanh vùng Sài Gòn - Chợ Lớn nhằm phòng chống các cuộc tấn công từ hướng tây của quân Xiêm và Chân Lạp.
Lúc Pháp đánh chiếm Sài Gòn, con đường Trần Quang Khải và khu vực hai bên đường vốn nằm bên ngoài tường thành Gia Định. Vì vậy, khi thành Gia Định thất thủ, nơi này trở thành vùng đệm giữa khu Đất Hộ62 (nơi cư trú của dân Tây và những người theo Tây) và khu Phú Nhuận bên kia cầu Kiệu (tạm coi như vẫn là của ta). Để từ đó, vào năm 1885, viên Đề đốc Nguyễn Văn Bường đã cùng những nghĩa quân yêu nước vượt qua cầu Kiệu để tấn công Đất Hộ. Tận những ngày sau Cách mạng Tháng Tám, những cụ ông, cụ bà sống lâu năm nơi đây nhớ lại: “Vài ngày là thấy xác người đàng mình bị Tây giết lẫn xác Tây, Việt gian tấp vào hai bên bờ”.
62 Tương đương Phường Đa Kao, Quận 1 ngày nay.
Một buổi trưa ngồi dưới tàng cây sao dầu có tuổi dễ đến gần thế kỷ, gần 20 năm trước, tôi được bà cụ Nguyễn Thị Xiếu, lúc ấy 68 tuổi, kể lại: “Hồi ông Phan Ngô cho đào móng xây trường Văn Hiến (nay là Trường Tiểu học Trần Quang Khải) trước ngày giải phóng, trúng một hầm toàn giầy bốt cao su đi vùng bùn sình của lính Nhật hay Pháp gì đó, bà con trong xóm xô ra lấy về cân bán cao su ký. Tui lúc đó còn trẻ cũng quơ được một mớ”.
Bà cụ Xiếu sống hầu như cả đời trên con đường này với đủ nghề: làm lò cơm rượu, gánh nước mướn (hồi chưa có nước máy), bán chè, cháo, hủ tiếu… và lúc đó là mưu sinh cả ngày trên vỉa hè với xấp vé số. Cụ hồi tưởng: “Ba má tui dân Gò Vấp, hồi đàng mình nổi (Cách mạng Tháng Tám) nghe nói đất này toàn bà con nghèo với nhau nên dễ xoay xở làm ăn, đùm bọc nhau chạy về đây”.
Giờ thì họ đã thành dân cố cựu và có hộ khẩu thường trú rồi. “Người cũ” lại tiếp tục công việc đón “người mới” từ khắp nơi tìm đến. Có lẽ đồng cảnh nghèo dễ sống với nhau, cho nên sau khi khu nhà sàn trên kinh Nhiêu Lộc bị giải tỏa, nhiều cư dân dù đã được tái định cư ở nơi mới khang trang hơn vẫn quay về “chốn xưa”. Anh Trương Viết Lộc - người tài xế xe ôm bao nhiêu năm đã quen sống với dòng kinh, tuy nay đã dời về chung cư ở Gò Vấp nhưng ngày ngày vẫn ngồi đón khách trước một cửa hàng thời trang đối diện với ngôi đình cổ Nam Chơn.
Nói đến đình Nam Chơn thì không thể không nhắc đến sân võ nổi tiếng này. Sân đình này ngày xưa có lẽ cũng là nơi luyện tập võ nghệ của những cư dân lưu tán xứ Quảng thế kỷ 19, rồi sau này là của những đội Thanh niên Tiền phong năm 1945. Vài chục năm nay, sân đình đã trở thành sân tập của môn phái Nam Huỳnh Đạo. Nếu có dịp đi ngang đường Trần Quang Khải và ngó vào sân đình, người ta sẽ luôn bắt gặp hình ảnh những võ sinh trong bộ võ phục màu đen hăng say luyện tập từ sáng tinh mơ cho đến tối mịt. Bà cụ Xiếu thủng thỉnh kể: “Dân đây mê võ. Thời tui còn trẻ có ông Sáu Nhỏ ở xóm Văn Hiến, võ nghệ đầy mình, đá đến trâu rống, nổi danh giang hồ vì trọng nghĩa tình…”.
“Bể dâu đã bao đổi dời…”
Bà Sáu “bình dân”, chủ tiệm cơm tấm xưa ở góc đường Trần Quang Khải - Hai Bà Trưng vốn cũng là một người đàn bà “cứng cỏi xứ Gò Vắp”63 tìm đến đây từ năm 1946, chỉ tay về phía khách sạn đối diện: “Hồi đó là nhà bảo sanh, 12 đứa con của tui đều được sanh ở đó”. Rồi bà kể tiếp: “Trào Pháp nó64 tên Bôn Be (Paul Bert), từ dãy số chẵn cuối đường đổ ra sông (kinh Nhiêu Lộc) toàn nhà lá lụp xụp của xóm Chùa, dân xóm đó có tiếng từ thời tôi còn con gái”.
63 Được nhắc đến trong bài Gia Định phú: “Cứng cỏi bấy thứ đàn bà xứ Gò Vắp”.
64 Đường Trần Quang Khải.
Có lẽ bà cụ muốn nói đến những cư dân xóm Chùa nổi tiếng yêu nước và luôn có mặt trong hàng ngũ nghĩa quân nổi dậy chống Pháp từ thời Đề Bường65 cho đến Cách mạng Tháng Tám.
65 Đề đốc Nguyễn Văn Bường.
Xóm Chùa chỉ là một trong nhiều khu vực quần tụ quanh đường Trần Quang Khải mà đến nay dân trong vùng vẫn gọi theo những tên gọi cũ. Trong xóm Chùa lại chia nhánh thành xóm chùa Tam Bảo, xóm chùa Vạn Thọ… rồi bên cạnh đó còn có xóm Cầu tiêu, xóm Văn Hiến, xóm lò xôi rượu… Thậm chí, có những tên gọi rất xưa như xóm Vạn Chài66 xuất phát từ thời nhánh kinh này còn rộng như con sông, tấp nập “trên bến dưới thuyền”.
66 Hồi 2003 vẫn còn một đội lân trong xóm mang tên “đội lân Vạn Chài”.
Đình Phú Hòa lọt thỏm giữa những tòa nhà cao tầng xung quanh. - Ảnh: T.G.
Rùng mình nhất là xóm Cầu tiêu với ba “chi nhánh”: cầu Vạn Chài, cầu Bảy Biển, cầu Cây Mít. Mỗi “chi nhánh” gồm 10 nhà cầu chia đều 5-5 dành cho nam phía trước, nữ phía sau. Một bạn gái ở xóm Cầu tiêu “chi nhánh” Bảy Biển lắc đầu: “Nhớ lại mà… rởn da gà, nào xếp hàng chờ nhau, cãi cọ um sùm từ bốn năm giờ sáng đợi tới lượt; nào ngồi cầu cạnh nhau mà chuyện trò lung tung đủ chuyện; rồi những quý bà quý cô lơ đễnh rớt đồng hồ, dây chuyền vàng khi ngồi cầu, quên phắt bụng dạ, lần bước xuống kênh để mò”. Và cả cảnh những cô gái, những em gái tuổi mới lớn ngồi trên cầu bỗng la oai oái vì phát hiện có một “thằng mất dạy” đang lấp ló bên dưới. Người trong xóm chạy ra chụp cổ thì “thằng mất dạy” kêu là “người ta mò vớt trùn chỉ đặng bán chớ ai thèm” (!)…
Hiện nay, con đường dọc bờ kè kinh Nhiêu Lộc (nay đã mang tên Hoàng Sa) đã “thay da đổi thịt” đến không ngờ. Còn nhớ hồi trước khi giải tỏa, những tay “giựt dọc” trên đường Trần Quang Khải chạy thoát vào vô số ngõ hẻm đâm ra khu nhà sàn lụp xụp và nhảy tõm xuống dòng kinh đen là coi như nạn nhân “trơ mắt ếch”.
“Khác xưa nhiều lắm…”, bà Sáu “bình dân” bảo thế khi nhắc chuyện cách đây vài chục năm, thời mà cả khu vực dễ đến vài chục “đình chùa miếu mạo” không ít được khai sinh từ sau hồi thành Gia Định thất thủ năm 185967. Cũng lạ khi một số ngôi đình, chùa có tuổi hàng thế kỷ mới đây còn được ghi trong Tập 4 quyển Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (1998) vậy mà tìm đỏ mắt vẫn không thấy. Hỏi ra mới biết những ngôi đình chùa xưa giờ đã trở thành điểm dịch vụ Internet bề thế, cửa hàng này nọ…
67 Được nhắc trong bài Gia Định thất thủ vịnh: “Chốn chốn dựng đền thiêng miếu thánh”.
Có lần dự lễ hội kỳ yên tổ chức hàng năm của đình Phú Hòa, giữa những hoành phi liễn đối cổ xưa, tôi như được sống trong không gian thiêng liêng của những cư dân ngày xưa đi mở cõi. Trước thần Thành hoàng của ngôi đình là “Nam Hải đại tướng quân” (cá voi), tức vị thần độ trì những con dân Ngũ Quảng xưa vốn sống nghề chài lưới, vượt biển tìm đến đất này. Thế nhưng trong cơn lốc thời kinh tế thị trường, ngôi đình cổ này cũng không còn được nguyên vẹn khi một góc mặt tiền của nó từ lâu đã được trổ cửa thành điểm kinh doanh. Hồ Tường - nhà nghiên cứu văn hóa dân gian và khá am hiểu về đình chùa trong khu vực này - xuýt xoa bảo: “Nó suýt thành gara xe (!) nếu không kịp can thiệp…”.
Dọc theo đường Trần Quang Khải và khu vực lân cận, hiện nay là vô số nhà hàng khách sạn. Khách uống bia giờ cũng khác cái hồi sau 1945. Hồi trước, khách đứng uống ngay cạnh quầy bia hơi vỉa hè của bà Sáu với những chiếc thùng thiếc chứa vài chục lít bia có chèn đá bọt xung quanh giữ lạnh (mà bà Sáu gọi là “bớp líp xăng”). Còn bây giờ, “người ta vô mấy cái phòng kín mít trong nhà hàng ba bốn tầng để uống bia, thiệt lạ”.
Và đời sống của cư dân nơi này tất nhiên có những thay đổi đến kinh ngạc. Một sáng nọ, tôi được chứng kiến một đám cưới “đặc biệt” trong hẻm 68. Nhà đàng trai vốn chỉ nhỏ chừng chục mét vuông cho một hộ khẩu gồm cha mẹ và hàng chục đứa con, nên khi nhà gái đến lạy bàn thờ tổ tiên, đàng trai phải kê bàn tiếp khách ở góc hẻm phía trước, còn chiếc xe đẩy bán chè của bà mẹ chồng thì được gửi sang nhà hàng xóm. Thế nhưng chiều hôm đó, tiệc cưới của họ lại được tổ chức khá xôm tụ ở một điểm sang trọng. Nhiều hàng xóm trầm trồ: “Hai đứa đều có học, đang làm ở một khách sạn lớn ngoài Sài Gòn… Bọn trẻ xóm này giờ không bèo nhèo quá như ba má nó”.
Thiệt ra, đâu chỉ “bọn trẻ”. Bậc cha chú nơi đây giờ cũng khác trước nhiều lắm. Đám cưới đôi bạn trẻ kia làm sao được nhiều người biết đến như đám cưới của một chú rể “thất thập cổ lai hy”, vốn cũng là dân cố cựu khu nhà sàn trước khi giải tỏa. Đám cưới đó tới giờ cũng vài chục năm rồi mà tôi còn nhớ rõ vì “chú rể” hồi đầu thập niên 1990 dạy võ bên cạnh sân võ của tôi ở Nhà Văn hóa Thanh niên TP. HCM. “Chú rể” vốn là truyền nhân của một môn phái võ dân tộc, đồng thời cũng là một họa sĩ tài hoa với những nét cọ mềm mại. Ông từng có buổi triển lãm tranh riêng ở nhà hát Bến Thành. Vào một ngày cuối năm, lúc tôi đang ngồi uống nước ven đường thì bỗng thấy đôi vợ chồng chở nhau trên xe gắn máy chạy ngang qua. Cảnh tượng gia đình trông rất hạnh phúc. Chị bán thuốc lá ven đường nói vui: “Ông hồng hào và dường như tươi trẻ hơn xưa. Giờ người ta có nhà xịn ở chung cư mới rồi, đang ‘vẽ’ lại đời mình”.
Cách đây gần 20 năm, những ngày cuối năm 2003, người chủ quán cà phê vỉa hè quen thuộc đến nhẵn mặt lực lượng tém dẹp lòng lề đường nơi đây bảo: “Mai mốt hẻm 68 sẽ băng qua kinh Nhiêu Lộc sang quận Bình Thạnh bên kia bằng cây cầu mới, nghe nói là cầu Bông 268”, rồi buông thõng một câu không rõ vui buồn: “Lúc đó, chắc hẻm này thành lộ?!…”.
68 Hiện nay là cầu Hoàng Hoa Thám.
Giờ thì đúng là hẻm đã thành lộ từ lâu. Khi chúng tôi hỏi thăm những tên tuổi giang hồ lừng lẫy một thời như Cu đen, bé Năm, bé Chín, Lệ Cụt, Hùng Be… ngay bà con “cựu trào” cũng không rõ những người này đang ở đâu. Một người cho hay: “Có đứa đi cải tạo trong tù, có đứa đang cai nghiện… lâu lắm rồi, không thấy mặt mũi đâu”.
“Nói cho ngay, bà con ở đây bao đời nay toàn dân lao động chí thú chớ giang hồ, xã hội đen gì đâu! Chỉ vài tên tuổi mà mang tiếng”, chị Ngọc Thủy - cư dân hẻm 68 từ trước 1975 phân trần.
Trên đường Trần Quang Khải cách đây 20 năm còn có một cái nghề mà có lẽ ít nơi nào trong thành phố còn làm, đó là nghề “lộn sên”. Bởi giá một sợi sên mới toanh, hàng “xịn” chỉ vài chục ngàn đồng chứ đâu phải thiếu thốn gì như thời bao cấp. Một thợ “lộn sên” than thở: “Cả buổi lộn được một sợi sên, công vài ngàn mà bị tém dẹp lòng lề đường tịch thu đồ nghề hoài”. Rồi cô Ngọc Điệp, bí thư Đoàn Phường Tân Định lúc ấy, cũng than: “Phường cũng cực với dân làm nghề này. Bày đầy vỉa hè, dơ dáy, bà con càm ràm hoài. Vừa tịch thu xong, quay lại đã thấy có sợi sên khác bày ra rồi”.
Có điều than thì than vậy chứ lúc đó chính cô bí thư cũng là dân địa phương nên biết rõ “đó là nồi cơm người ta”. Trong đó, có cả đoàn viên rất tích cực công tác Đoàn của mình hiện cũng ngày ngày đục, tán để bán lại cho những khách hàng nghèo sử dụng tiếp những sợi dây sên vốn đã xài nát.
“Con đường lạ lắm, cái xấu và tốt ở đây đôi khi rất gần, lẫn lộn trong nhau; những điều mâu thuẫn cùng tồn tại bên nhau…”. Tôi nhớ hoài câu này của Ngọc Điệp khi trầm ngâm tâm sự với chúng tôi bên một quán nước vỉa hè.