Sự ra đời của ngôi chợ Bến Thành bên bờ kinh Chợ Vải đã khiến cho những con đường phía sau chợ mà nay là Hàm Nghi, Hồ Tùng Mậu, Ngô Đức Kế, Hải Triều trở nên sầm uất với hàng loạt hàng ăn, quán nước hoạt động tấp nập từ rạng sáng đến gần khuya. Thậm chí còn có một số sòng bạc sau chợ thức thâu đêm.
Trong khi đó, đại lộ Charner (nay là Nguyễn Huệ) phía trước chợ lại được hình thành khá muộn do ban đầu là kinh Chợ Vải và đến năm 1887 mới được lấp hoàn toàn. Dù vậy, đại lộ Charner dần cho thấy vị trí đặc biệt của nó trong dòng chảy đời sống văn hóa - kinh tế - chính trị của người Sài Gòn.
Khách sạn - nhà hàng Coq d’Or (Gà trống vàng) ở ngã tư Charner - d’Ormay (nay là Mạc Thị Bưởi) bày cả bàn ghế ra ngoài vỉa hè cho khách uống cà phê. Vị trí này nay là khách sạn Palace. - Ảnh tư liệu.
“Đại lộ cà phê” đầu tiên của Sài Gòn
Nếu nói về những quán cà phê đầu tiên12 trên đất Sài Gòn thì ắt hẳn là trên con đường Catinat13 vì đây vốn là con đường đầu tiên được người Pháp tập trung chỉnh trang và xây dựng ngay sau khi kiểm soát hoàn toàn Sài Gòn. Đường Catinat nhanh chóng trở thành nơi tập trung các cửa tiệm vải, tiệm chụp ảnh, tòa soạn báo, công ty... sang trọng nên thu hút giới thượng lưu thời ấy tìm đến. Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca (1909) của tác giả Nguyễn Liên Phong đã mô tả:
12 Niên giám Đông Dương đầu thế kỷ 20 ghi nhận ít nhất là có ba quán trên đường Catinat.
13 Từ 1955-1975 đổi tên là đường Tự Do. Nay là Đồng Khởi.
Nhứt là đường Ca-ti-na
Hai bên lầu các, phố nhà phân minh (...)
Máy may mấy chỗ quá nhiều
Các tiệm tủ ghế dập dều (dìu) phô trương
Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương (đan)
Đồ thêu, đồ chạm trữ (trổ?) thường thiếu chi (…)
Nhà in, nhà thuộc, nhà chà
Nhà hàng ăn ngủ với nhà lạc son...
Một góc chợ Bến Thành cũ nhìn ra bến Bạch Đằng ngày nay. Cạnh dãy cà phê Méridional là tòa nhà Wang-Tai (nay là trụ sở Hải quan TP. HCM). - Ảnh tư liệu.
Phạm Quỳnh cũng đã kể về đường Catinat sang trọng “bực nhứt” Sài Gòn ấy trong Một tháng ở Nam kỳ (1918): “Các cửa hàng lớn, hàng tây, hàng ta (phần nhiều người Bắc kỳ), hàng Chà (phần nhiều người Bombay bên Ấn Độ), hàng khách, chen nhau xin xít. Lại thêm có mấy nhà khách sạn lớn, nhà chớp bóng, nhà hát tây, nên chiều chiều cứ tự năm giờ trở đi kẻ đi người lại như nước chẩy. Người sang trọng, kẻ thượng lưu, tất mỗi buổi phải dạo qua đường Catinat một lượt mới là nền. Những trai thanh gái lịch đất Sài Gòn lấy đấy làm chốn cực phẩm phong lưu”.
Tuy nhiên, Phạm Quỳnh cũng đã nhận ra mối quan hệ phát triển tất yếu của đại lộ Charner khi phải đáp ứng nhu cầu đang tăng mạnh của số đông trong khi đường Catinat kế bên bị hạn chế ở tầng lớp thượng lưu: “(Catinat) Đông đúc phồn thịnh đến nỗi đã phải mở một con đường chạy dọc theo, to lớn rộng rãi hơn nhiều, gọi là đường Charner (...)”.
Những cây cà phê đầu tiên ở Việt Nam đã được trồng ở miền Bắc vào năm 1888 nhưng ly cà phê đầu tiên lại được rót bán tại Sài Gòn, có lẽ vì đây là mảnh đất dễ dàng dung nạp mọi nền văn hóa ẩm thực. Theo nhà văn Sơn Nam, chỉ năm năm sau khi Pháp đánh chiếm, người Pháp đã khai trương hai quán cà phê đầu tiên trên đất Sài Gòn: Café de Lyonnais trên đường Lagrandière (nay là Lý Tự Trọng) và Café de Paris trên đường Catinat.
Trong khi đó, đại lộ Charner dù được hình thành sau nhưng đã sớm trở thành con đường sầm uất nhất Sài Gòn tại thời điểm đó. Người ta đến đây không chỉ để đi chợ sáng mà còn có thể ghé uống ly cà phê, ăn bánh mì, ăn hủ tiếu, hút thuốc, đọc báo... tại vô số quán dọc hai bên đại lộ và khu vực xung quanh chợ.
Tòa Hòa giải (Justice de Paix - hiện nay là vị trí tòa nhà Sun Wah). Xung quanh khu vực tòa nhà này rất nhiều quán cà phê, trong đó có cả quán mang tên cà phê Hòa Giải (Café de la Paix). - Ảnh tư liệu.
Năm 1910, chợ bị giải tỏa sau khi nhiều cư dân xung quanh than phiền và khiếu nại lên Hội đồng thành phố Sài Gòn về vấn nạn ô nhiễm. Niên giám Nam kỳ trước và sau khi giải tỏa chợ ghi nhận trên đại lộ Charner có nhiều quán cà phê. Điển hình là ngay bờ sông Sài Gòn, cửa ngõ vô đại lộ là Café de Marseille của ông Freund. Khách đông, sau này ông mới mở thêm quán nữa tên Cafe du Marché (Cà phê Chợ) bên hông chợ Bến Thành. Phía số lẻ gần bờ sông, qua tòa nhà Wang-Tai14 là Café Méridional hoành tráng của bà Lachal với ba số nhà liền nhau 3-5-7 (chỉ còn cách hai căn số 9 và 11 tới chợ).
14 Tòa nhà của ông Vương Thái, nay là trụ sở Hải quan TP. HCM.
Cà phê rõ ràng đã đáp ứng nhu cầu khách tứ xứ lẫn khách đi chợ lúc ấy nên mặt tiền Charner gần chợ lại có một quán khác cùng tên Café du Marché ở số 33, nhưng chủ là bà Truhaut; rồi hàng loạt quán cà phê nối tiếp nhau đoạn gần ngã tư Charner - d’Ormay (nay là Mạc Thị Bưởi): Café de Provence của bà Genon; Café de la Paix của bà Soudan (quán cà phê Paix gần như đối diện với tòa nhà Justice de Paix); Café de l’Orient của bà Tisseyre; xa xa một chút gần đại lộ Bonard là Café Américain của bà Nault...
Bánh mì “tấn công” hủ tiếu và xôi
Không chỉ cà phê, người Pháp đến đâu đem theo văn hóa bánh mì đến đó. Từ những tiệm bánh mì nhỏ chủ yếu cho người Pháp bên đường Catinat, nhiều tiệm bánh mì của người Pháp, người Việt, người Hoa nhanh chóng mở ra trên đại lộ Charner. Gần bờ sông cùng phía với chợ có tiệm bánh mì của ông Lương Phúc Tài; đoạn gần đại lộ Bonard có một số tiệm bánh mì của người Hoa xen lẫn với các tiệm tạp hóa, xẻng cuốc...
Thế nhưng nổi tiếng nhất là tiệm bánh mì ở cuối đường gần đại lộ Bonard (nay là Lê Lợi) mà chủ lẫn thợ đều là người Pháp: Louis Roux. Nơi đây, bánh mì kiểu Pháp (baguette, bánh sừng bò bơ, bánh mì tròn mềm rưới đường, mật... mà hiện nay chúng ta vẫn ăn) được ra lò ngày hai lần: “Mỗi bữa sớm mai và chiều đều có bánh mới sốt dẻo và bánh sừng-bò chẩy beurre (bánh mặn). Ngày chủ nhật, thứ ba và thứ năm có bánh tròn mặn, bánh bò chế mật” (mẩu quảng cáo trên Nông Cổ Mín Đàm). Tờ báo này năm 1901 còn đăng một lời rao khác của tiệm này: “Phố bánh mì thiệt thợ Langsa làm (của ông Roux). Nội Saigon có một phố hàng này mà thôi ở tại đường Charner (tục danh đường Kinh Lấp) số 125. Xin anh em chớ lộn (...) Ai muốn mua bánh để lâu đặng đi đường, hay là đi rừng đi rú thì cũng có bán” (nguyên văn quảng cáo xưa).
Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp bánh mì cho các “cơ binh” (lính Pháp), bánh mì của người Pháp đã chính thức tấn công “đất hủ tiếu” của người Hoa và gánh xôi buổi sáng của Việt ngay tại khu vực chợ Bến Thành. Cuộc tổng tấn công “phố bánh mì” của ông Roux này ngày càng mở rộng: mở thêm chi nhánh ngay đầu đường Charner; “tiến quân” sang chợ Tân Định (gần bánh mì Như Lan trên đường Hai Bà Trưng hiện nay); tràn sang “thủ phủ hủ tiếu” của người Hoa trên đường Des Marins15. Thậm chí, bánh mì của tiệm còn “đổ bộ” xuống lục tỉnh Nam kỳ, bước đầu là Biên Hòa, Vũng Tàu, rồi tới các tỉnh miền Tây: “Còn ở các hạt Tân-an, Bến-tre, Cái-bè, Cần-thơ, Hà-tiên, Sốc-trăng, Vĩnh-long và Sa-đéc, anh em ai muốn mua vật chi thì xin gởi thơ cho tôi, tên Roux tại Mỷtho....” (nguyên văn quảng cáo).
15 Trần Hưng Đạo trong Chợ Lớn, đoạn từ An Bình đến Học Lạc.
Cách uống cà phê “độc nhất vô nhị” của người Sài Gòn xưa
“Tô - Ly - Điếu - Tờ” là bốn chữ có thể tóm tắt về bốn thói quen buổi sáng của nhiều người Sài Gòn từ xưa đến nay: tô hủ tiếu, ly cà phê, điếu thuốc và tờ báo.“Chúng ta đã mang cà phê đến Đông Dương. Trong khi chỉ một số ít người dân Bắc kỳ (Tonkin) ngần ngại uống cà phê theo cách của chúng ta thì nhiều người Sài Gòn tiếp nhận nó vui vẻ nhưng uống theo cách của họ”, đó là nhận xét của Mauvais, một du khách người Pháp sau một chuyến du hành Đông Dương vào cuối thế kỷ 19.
Như chúng ta đều biết, cách pha cà phê của người Pháp từ xưa đến nay là dùng dụng cụ lọc (phin cà phê). Còn cách pha cà phê khiến ông Mauvais “kinh ngạc” khi đến thăm ngôi chợ Bến Thành trên đại lộ Charner là “Người dân nơi đây đổ bột cà phê đã xay vô một chiếc ấm sành lớn có một vòi lớn để cầm và một vòi nhỏ để rót16 rồi nấu lên như cách họ nấu thuốc uống. Khi rót, họ dùng một tấm vải mỏng đặt trên ly để lọc bã cà phê ra”.
16 Siêu sắc thuốc.
Một quán hủ tiếu của người Hoa trên đường Charner, trước chợ Bến Thành cũ năm 1908. - Ảnh tư liệu.
Phải chăng đây là cách uống cà phê mà sau này đã được biến thể thành cà phê vợt mà chúng ta vẫn còn thấy ở một vài quán vỉa hè Sài Gòn, Chợ Lớn hôm nay?
Cách uống có lẽ cũng khiến tác giả ngạc nhiên không kém: “Họ co một hoặc cả hai chân trên ghế và uống nhanh chứ không chậm rãi như chúng ta lẫn đồng bào17 xứ Bắc kỳ của họ. Vừa uống, họ vừa bàn bạc hay kể công việc làm ăn, tin tức gì đó mà họ biết - xứ này quá rộng để một người biết hết mọi chuyện. Ai biết chữ18 thì nhằm bữa có nhựt trình, thay vì đọc một mình như chúng ta thì một người đọc vừa đủ cho nhóm mình nghe chăm chú...”
17 Nguyên văn: dong bao.
18 Chữ Quốc ngữ.
Nhộn nhịp không khí buổi đầu của làng báo Việt
Không chỉ là nơi tập trung các hàng quán ăn uống, khu vực xung quanh đại lộ Charner còn là nơi đặt tòa soạn và tổ chức phát hành của hàng loạt tờ báo chữ Quốc ngữ lẫn tiếng Pháp. Việc này khiến cho đường Charner trở thành đầu mối thông tin quan trọng bậc nhất của báo chí Nam kỳ từ cuối thế kỷ 19.
Nhà văn Sơn Nam trong Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ nhận định: “Người Sài Gòn cũng ưa nghe tin tức, hay còn gọi là tìm lượng thông tin, bởi vậy báo chí là món ăn cần thiết. Họ đọc báo để tìm hiểu tình hình chung, đặc biệt là tin tức liên quan đến công việc làm ăn hàng ngày của mình. Thiếu lượng thông tin, hóa ra lạc hậu, thất bại trong việc làm ăn, vì tình hình luôn biến động từng giờ, từng phút. (...). Ngồi quán cà phê đọc báo, chờ bạn bè, ai không đọc báo thì lắng nghe người đã đọc tóm lược giùm”.
Ngày 1-8-1901, Nông Cổ Mín Đàm19 - tờ báo kinh tế tiếng Việt đầu tiên trên đất Sài Gòn - ra số đầu tiên và phát hành thứ Năm hằng tuần bằng chữ Quốc ngữ. Tòa soạn ban đầu đặt ở đường La Grandière (nay là Lý Tự Trọng) rất gần đại lộ Charner.
19 Nghĩa là: uống trà bàn chuyện làm ruộng và đi buôn.
Ngày 15-11-1907, tờ Lục Tỉnh Tân Văn ra đời và cũng xuất bản vào ngày thứ Năm. Cả hai tờ có điểm chung là từng có chủ bút là nhà yêu nước Trần Chánh Chiếu nên dễ hiểu những số đầu tiên đã trở thành “tiếng nói của cuộc vận động Minh Tân, hướng theo cải cách, tự cường đang sôi động ở Bắc và Trung kỳ”. Lục Tỉnh Tân Văn cổ vũ lòng yêu nước, chống Pháp và phong kiến tay sai, tư tưởng vong bản… nên đã trở thành tờ báo có uy tín nhất ở Nam kỳ lúc ấy. Nhiều cây bút miền Bắc, miền Trung đã vào Sài Gòn học nghề báo tại tờ báo này như: Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Trần Huy Liệu, Tản Đà…
Ngoài ra, ngay đại lộ Charner cũng là nơi đặt tòa soạn hai tờ báo tiếng Pháp: Journal L’Indochine Française và Moniteur des Provinces (sau tờ này có thêm phiên bản tiếng Việt lấy tên Nhật báo tỉnh). Tờ Moniteur des Provinces được chính quyền Pháp lúc ấy cấp phép xuất bản cho ông Georges Garros, một luật sư người Pháp am hiểu và cấp tiến từng viết nhiều sách và bài nghiên cứu về Nam kỳ. Ông cũng có mối quan hệ bạn bè với nhiều người Việt yêu nước. Vì vậy, danh nghĩa là công báo nhưng rất thú vị khi Nhật báo tỉnh có đăng cả những bài viết của Gilbert Trần Chánh Chiếu kêu gọi canh tân xã hội Việt Nam thời thuộc Pháp.
Ngoài ra, những tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên của lục tỉnh Nam kỳ như Gia Định báo (1865-1910), Nhật Trình Nam Kỳ (1883 - ?), Phan Yên báo (1898-1899), Thông Loại Khóa Trình (1988-1889), Phụ Nữ Tân Văn (1926-1935)... dù có tòa soạn nằm trên những con đường lân cận cũng tìm đến phát hành tại đại lộ Charner vốn tập trung rất nhiều người Việt.
Không chỉ vậy, đại lộ Charner còn là tuyến giao thông quan trọng cho việc phát hành báo đi khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Gò Vấp (tỉnh Gia Định) bằng các tuyến xe lửa bên đại lộ de la Somme và xe điện (đặt giữa đại lộ Charner), đồng thời có thể đi lục tỉnh Nam kỳ bằng tuyến đường thủy theo rạch Bến Nghé.
Rõ ràng, sau khi kinh Chợ Vải trước chợ Bến Thành bị lấp vào năm 1887, đại lộ Charner đã trở thành đầu mối thông tin lớn của Sài Gòn đi các tỉnh. Vì vậy, những tờ báo chữ Quốc ngữ này đăng khá nhiều những quảng cáo hướng đến không chỉ khách hàng cư ngụ tại vùng Sài Gòn - Chợ Lớn mà cả những khách hàng ở khắp lục tỉnh. Thậm chí, lò bánh mì lớn trên đại lộ Charner của ông Louis Roux ở số 125 đã bổ sung thêm “bánh tròn mặn, bánh bò chế mật” vào ngày thứ Năm là ngày phát hành của nhiều tờ báo Quốc ngữ.
Ga xe điện Sài Gòn - Chợ Lớn ngay trước chợ Bến Thành cũ đầu thế kỷ 20. - Nguồn: Brunet.