Phật giáo được lưu truyền từ hơn hai nghìn năm trước cho đến nay, có một số giáo lý được con người dùng nhãn quan triết học để nhìn nhận, trong đó cũng không hiếm những nội dung có tính khoa học, nhưng những hàm nghĩa khoa học đó lại rất ít người có thể hiểu, ví dụ như gen di truyền.
Gen di truyền là gì? Gen di truyền là mật mã của một cơ thể. Trên thế giới, có cả trăm ngàn loài có mạng sống khác nhau, cho dù là con cái cùng cha mẹ sinh ra cũng có rất nhiều điểm không giống nhau, đó là vì mật mã gen của một cơ thể bố trí không giống nhau.
Căn cứ vào báo cáo phân tích và xác định sơ bộ từ kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học sáu nước gồm: Mỹ, Trung Hoa, Đức, Pháp, Thụy Điển, Nhật Bản tham gia dự án nghiên cứu tổ chức bộ gen, đã phát hiện trong hệ thống tổ chức bộ gen của con người có 32 tỷ cặp gen, bao gồm khoảng ba vạn đến bốn vạn protein mã hóa gen.
Dự án nghiên cứu tổ chức bộ gen con người nêu trên, cùng dự án nghiên cứu bom nguyên tử Manhattan và dự án đặt chân lên mặt trăng của Apollo được gọi chung là ba dự án lớn trong lịch sử khoa học tự nhiên. Trong đó, dự án nghiên cứu tổ chức bộ gen con người có sức ảnh hưởng lớn đến nhân loại hơn cả so với hai dự án còn lại, và nghiệp lực được Đức Phật nói tới, đã bao hàm tất cả những tri thức về nhân tố gen di truyền.
Đứng trên phương diện Phật giáo, gen vẫn là khái niệm thuộc về pháp hữu vi tức là cực vi trong Duy thức học, cũng là vô minh trong kinh điển; nghiệp lực thuộc về hành vi của thân, khẩu, ý tạo ra có tác dụng tạo tác. Trong Thập nhị nhân duyên1, vô minh chính là nhân của nghiệp lực, mà gen được giới hạn bởi vô minh và hành trong (Thập nhị nhân duyên). Ba ngàn đại thiên thế giới bao la rộng lớn, nói rõ sức mạnh vô lượng của những pháp cực vi như: nguyên tử, phân tử, nơtron, trong cái nhỏ có cái lớn. Do đó, lý luận triết học Phật giáo cũng vui vẻ thừa nhận lý luận khoa học để chứng minh cho nhau.
1 Xem Mười hai nhân duyên của Phật giáo.
Ngày nay, giới tri thức tin rằng tôn giáo và khoa học hiện đại không thể phối hợp với nhau, chẳng hạn như quan điểm của Kitô giáo cho rằng thượng đế sáng tạo ra vạn vật, sáng tạo ra nhân loại, quan điểm đó không thể phù hợp với lý giải của khoa học. Tương tự, việc phi hành gia Armstrong đặt chân lên mặt trăng, hay sức mạnh của quả bom nguyên tử thả xuống thành phố Hiroshima và việc phát hiện ra gen di truyền ngày nay cũng đều “đánh” vào lý luận của tôn giáo. Kỳ thực, các hiện tượng trong vũ trụ có thể giải thích được bởi khoa học, cho tới sự phát triển của ba dự án lớn nêu trên đều có mối quan hệ rất mật thiết với Phật giáo.
Trong Phật giáo, quá trình thành - trụ - hoại - không của vũ trụ nói rõ ba kiếp lưu chuyển của con người, những gì Đức Phật nói đều có thể có mối quan hệ với những gì mà khoa học ngày nay đã đề cập đến. Có thể nói “lời nói của Đức Phật không hư dối”, thành thật đáng tin!
Phật giáo cổ xưa mang những lý luận rất thâm sâu, nhưng người hiện đại chưa thể nghiên cứu một cách thông suốt và hiểu rõ nội hàm thâm sâu của nó. Đúng lúc này những phát minh khoa học vừa hay có thể chứng minh cho Phật giáo, cho nên Phật giáo không những không bài xích khoa học mà còn hoan nghênh những nghiên cứu ở cấp độ cao hơn của khoa học, đem từng lý luận Phật giáo để chứng minh cụ thể. Vì thế nói kinh điển Phật giáo là văn học, giáo lý Phật giáo là triết học, ứng dụng Phật giáo là khoa học, hay giống như giáo nghĩa thể - tướng - dụng1; trong Phật học, triết học là thể, văn học là tướng, khoa học là dụng, giải thích như thế không có gì là không được.
1 Một pháp luôn đầy đủ: thể - tướng - dụng. Thể (hay thể tánh) là bản chất nội hàm; tướng là hình dáng bên ngoài; dụng là cái ứng dụng, áp dụng của mỗi pháp.
Nếu có người hỏi về gen di truyền, chúng ta có thể nói như trên.