K
ATHRYN DANCE CÓ đến vài cuộc đời.
Một người mẹ góa bụa của hai đứa nhóc đang bước vào tuổi vị thành niên.
Một đặc vụ của Cục Điều tra California, với chuyên môn thẩm vấn và nghiên cứu ý nghĩa cử chỉ - phân tích ngôn ngữ cơ thể.
Cô con gái ngoan ngoãn, dễ bảo đôi khi bất kính và cáu tiết, sống cùng bố mẹ gần đó.
Đấy là thứ tự cô đặt ra cho các khía cạnh của cuộc đời mình. Trật tự thứ tư, gần như là thiết yếu cho sức mạnh tâm linh của cô, hệt như ba trật tự đầu: Đó là âm nhạc. Giống Alan Lomax, vào thời điểm giữa thế kỷ trước, Dance là một chuyên gia nghiên cứu về văn hóa dân gian, một người đi săn tìm bài hát. Đôi khi cô hưởng thụ thời gian nghỉ ngơi của mình, trèo lên chiếc SUV, đôi khi đi cùng lũ nhóc và mấy con chó, đôi khi, như lúc này đây, cô một mình tìm kiếm âm nhạc, theo cách những thợ săn tiến ra cánh đồng săn hươu hoặc gà tây.
Hiện Dance đang lái chiếc Pathfinder dọc Đường Cao tốc số 152 từ Bán đảo Monterey qua một đoạn đường dài, phần lớn không cây cối của California đến Fresno ở Thung lũng San Joaquin, cách ba giờ đi xe. Nơi đây là trung tâm nông nghiệp của đất nước và của những chiếc xe tải moóc kép để hở, chất đầy tỏi, khoai tây cùng các rau củ quả khác, đang không ngừng lăn bánh đến các nhà máy chế biến thực phẩm khổng lồ trên chặng đường mù sương. Những cánh đồng canh tác vẫn đang xanh tươi, hoặc nếu đã được thu hoạch thì chỉ còn lại sắc đen màu mỡ, trong khi mọi thứ đều khô héo, xám xịt như chiếc bánh mỳ nướng bị bỏ quên.
Bụi cuộn xoáy phía sau xe Nissan, bầy côn trùng chết như rạ trên tấm kính chắn gió.
Nhiệm vụ của Dance trong vài ngày tới là thu âm những giai điệu tự viết của một nhóm nhạc sĩ địa phương Mexico, tất cả bọn họ đều sinh sống gần hoặc ở ngay Fresno. Một số người còn thu hoạch trên những cánh đồng nên đặt tên cho nhóm của mình là Los Trabajadores, Những Người Công Nhân. Dance sẽ thu lại ca khúc của họ bằng chiếc TASCAM HD-P2 Kỹ thuật số, khá đắt so với mức thu nhập của cô, nhưng tuyệt hảo. Sau đó cô sẽ biên tập và tải các ca khúc lên trang web riêng, “American Tunes”.
Mọi người có thể tải chúng về với một khoản phí nho nhỏ, mà phần lớn cô sẽ gửi lại cho các nhạc sĩ. Chỉ giữ lại một khoản vừa đủ trang trải các chi phí của trang web và thi thoảng mấy mẹ con đi ăn tối. Chẳng ai giàu được từ việc tải nhạc lên mạng nhưng một số nhóm mà cô cùng đối tác kinh doanh của cô trong vụ này, Martine Christensen, phát hiện ra không chỉ thu hút sự chú ý của địa phương mà còn của cả nước.
Cô vừa giải quyết xong một vụ khó nhằn tại Monterey, văn phòng CBI mà cô được chỉ định đến, nên quyết định nghỉ ngơi một thời gian. Bọn trẻ đang đi dự hội trại thể thao và âm nhạc, ngủ qua đêm với ông bà chúng. Dance được tự do rong ruổi ở Fresno, Yosemite và các khu xung quanh, thu âm cho nhóm Los Trabajadores và tìm kiếm các tài năng khác tại địa phương đậm chất âm nhạc này. Nơi đây không chỉ tìm thấy nhạc Latin, mà còn cả một dòng độc đáo của nhạc đồng quê (dĩ nhiên có lý do, thể loại này thường xuyên được gọi là nhạc đồng quê miền Tây). Thực ra âm nhạc của vùng Bakersfield bắt nguồn từ thành phố nằm cách Fresno vài giờ đi xe về phía nam, đã trở thành phong trào nhạc đồng quê chủ chốt, nó phát sinh từ phản ứng của một số người với cái mà họ nghĩ là những sản phẩm quá khéo léo của Nashville vào thập niên 50. Các nghệ sĩ trình diễn như Buck Owens và Merle Haggard đã khởi xướng phong trào này, và gần đây nó đã hồi sinh trong âm nhạc của những nghệ sĩ như Dwight Yoakam và Gary Allan.
Dance vừa nhấp một ngụm Sprite vừa dò các đài radio. Cô đã cân nhắc biến chuyến đi này thành một cuộc trốn chạy lãng mạn, và rủ Jon Boling đi cùng. Nhưng anh vừa nhận tư vấn cho một công ty khởi nghiệp về máy tính nên sẽ phải mất vài ngày. Và vì một số lý do, Dance quyết định cô thích đi một mình hơn. Vụ án bắt cóc cô vừa giải quyết rất khó khăn; hai ngày trước cô đã phải đi cùng hai nạn nhân may mắn sống sót tới dự đám tang một nạn nhân mà họ không thể cứu được.
Cô bật kênh AC. Vào dịp này trong năm, Bán đảo Monterey trở nên dễ chịu, thi thoảng thậm chí se lạnh, và cô ăn vận theo quy ước lên tàu tại cảng. Trong chiếc áo sơ mi cotton xám dài tay và quần jean xanh, cô rất nóng bỏng. Nhẹ tháo cặp kính viền hồng và lau nó bằng khăn ăn, cô lái xe bằng đầu gối. Làm sao đó mồ hôi bắt đầu chảy xuống một bên mắt kính. Nhiệt kế trong chiếc Pathfinder báo bên ngoài đang trên ba mươi lăm độ.
Tháng Chín. Phải rồi.
Dance mong chờ chuyến đi này vì một lý do khác - cô chỉ muốn gặp người bạn duy nhất của mình, Kayleigh Towne, nữ ca sĩ - nhạc sĩ nhạc đồng quê đang nổi. Kayleigh là người ủng hộ lâu dài cho trang web của Dance, và các nhạc sĩ bản xứ khác mà cô và Martine cổ vũ. Nàng ca sĩ đã ngỏ lời mời Dance đến dự buổi hòa nhạc tối thứ Sáu của mình ở Fresno. Cho dù trẻ hơn Dance mười hai tuổi, nhưng Kayleigh đã trở thành nghệ sĩ trình diễn từ khi cô bé mới chín mười tuổi, trở thành ca sĩ chuyên nghiệp kể từ khi bước qua tuổi teen. Người nữ nhạc sĩ kiêm ca sĩ giải trí xuất chúng, khôi hài và tinh tế này, không bao giờ chú trọng đến cái tôi, người phụ nữ trưởng thành trước tuổi. Dance rất thích làm bạn với cô bé.
Cô bé cũng là con gái của huyền thoại nhạc đồng quê Bishop Towne.
Có đôi lần, Dance đã đến dự những buổi trình diễn của Kayleigh, hoặc đến thăm cô bé tại Fresno. Ông bố Bishop to như con gấu của cô bé nặng nề lê tấm thân nặng hàng nghìn pound vào phòng, với xúc cảm mãnh liệt của một người khao khát phục hồi danh tiếng, như ông từng thèm khát ma túy và rượu. Ông huyên thuyên về những người khác trong Nghề1 - trong đó chữ N quan trọng được cố tình nhấn mạnh: các nhạc sĩ ông quen thân (hàng trăm người), các nhạc sĩ ông học hỏi được (chỉ những người tuyệt nhất), các nhạc sĩ một tay ông đào tạo (hầu hết các siêu sao của ngày nay) và các nhạc sĩ ông đã từng động chân động tay với họ (cũng có nhiều người trong số đó).
1 Nguyên văn là “Industry”.
Tính cách ông hỗn hào, thô lỗ và phô trương quá đà, Dance bị lôi cuốn.
Mặt khác, album mới nhất của ông đã thất bại. Ông đã mất chất giọng cũng như năng lượng. Với hai điểm yếu này thì ngay cả công nghệ kỹ thuật số tiên tiến nhất trong phòng thu cũng đành bó tay. Không điều gì có thể cứu vãn sự nghiệp sáng tác sáo mòn, rất khác so với những ca từ, giai điệu tuyệt vời đã nâng ông lên đỉnh cao vài năm trước.
Dù sao ông vẫn còn một người đồng hành thủy chung, ông vẫn kiểm soát chặt chẽ sự nghiệp của Kayleigh, sẵn sàng giáng họa cho bất kỳ nhà sản xuất, công ty thu âm hay nhà hát nào đối xử với cô không đúng mực.
Giờ đây Dance tiến thẳng vào Fresno. Thung lũng Salman, một trăm dặm về phía tây nổi tiếng là Bát Salad của quốc gia. Nhưng San Joaquin thì rộng lớn và sản xuất nhiều hơn, Fresno nằm chính giữa trung tâm của nó. Nơi này là thành phố bận rộn không có gì nổi bật với khoảng nửa triệu dân, có hoạt động băng đảng, các mối đe dọa khủng bố, giết người và trộm cắp mà bạn từng thấy trong mỗi khu đô thị nhỏ thời gian gần đây, với tỷ lệ hơi cao hơn mức trung bình đối với tất cả cư dân. Cô phỏng đoán, tình trạng lạm phát - hình ảnh phản ánh nạn thất nghiệp đang hoành hành ở đây - khoảng 18%. Cô để ý một số thanh niên là bằng chứng sống cho thống kê này. Họ đang lang thang trên những góc phố tối mờ. Mặc áo thun không tay, quần ngố hoặc quần jean, họ nhìn theo cô và những chiếc xe khác chạy qua, hoặc nói chuyện, cười đùa và uống rượu từ những cái chai bọc trong túi giấy.
Những làn bụi và nhiệt thoát ra từ các bề mặt lò nướng bánh. Những con chó ngồi trên các hàng hiên, nhìn chằm chằm qua dòng xe cộ về phía xa xôi một cách vô hồn. Cô liếc qua lũ trẻ ở các sân sau đang vui sướng nhảy lên những vòi phun nước chảy nhỏ giọt, một hành động đáng ngờ nếu không muốn nói là trái luật pháp tại xứ California vốn liên tục hứng chịu nạn hạn hán.
Vệ tinh dễ dàng dõi theo cô đến Nhà trọ Mountain View đối diện Xa lộ 41. Nhưng cảnh quan ở đây thật trống trải, mặc dù có thể là do sương mù. Cô suy luận, liếc mắt từ đông sang bắc, và thấy những chân đồi mờ ảo cuối cùng sẽ dẫn đến Yosemite hùng vĩ.
Bước vào hơi nóng khô khốc, Dance thực sự cảm thấy đầu mình nhẹ bẫng. Bữa sáng cùng lũ nhóc và bầy chó đã trôi qua lâu rồi.
Nhà trọ vẫn chưa sẵn sàng đón khách nhưng cũng chẳng quan trọng, vì cô sắp gặp Kayleigh cùng vài người bạn trong nửa tiếng nữa, vào lúc một giờ. Cô kiểm tra các túi xách ở quầy lễ tân rồi nhảy bổ lên con Pathfinder, lúc này đang nóng như cái lò nung.
Cô gõ thêm một địa chỉ nữa vào GPS, nghiêm túc lái xe theo hướng được chỉ dẫn, tự hỏi tại sao hầu hết các giọng được lập trình trong vệ tinh hoa tiêu chỉ toàn giọng nữ.
Tại một điểm dừng đèn đỏ, cô lấy điện thoại ra, liếc mắt nhìn vào mục gọi tới và danh sách tin nhắn.
Trống trơn.
Tin tốt là không ai ở văn phòng, hay không đứa trẻ nào ở trại liên lạc với cô.
Nhưng kỳ lạ khi chẳng có tin tức nào của Kayleigh, lẽ ra cô bé sẽ gọi vào sáng hôm đó để xác nhận cuộc gặp. Và một điều ở người nghệ sĩ này luôn gây ấn tượng với Dance: Bất chấp danh tiếng của mình, cô bé vẫn luôn quan tâm đến những điều nhỏ nhặt. Thực ra, trong cuộc sống cũng như trong hoạt động biểu diễn, dường như cô bé cực kỳ có trách nhiệm.
Một cuộc gọi nữa cho Kayleigh. Thẳng vào hộp thư thoại.
KATHRYN DANCE PHẢI phá lên cười.
Mấy tay chủ quán bar Cowboy rất có khiếu hài hước. Một nơi tối om, xây bằng gỗ, mát đến kinh ngạc nhưng lại chẳng có tí đồ nào của dân cao bồi. Tuy nhiên cuộc sống trên yên ngựa được minh họa rất sinh động - với những người phụ nữ cưỡi ngựa đi trên bãi săn bắn, quăng dây bắt, đánh dấu và lùa đàn gia súc... Thêm vào đó là vài công việc khác thường với những khẩu súng ngắn, nếu bạn có thể tin tưởng tấm poster phiên bản Viễn Tây cũ của Rosie the Riveter, đang bắn rụng mấy cái chai khỏi hàng rào.
Căn cứ theo nghệ thuật điện ảnh, các bìa bọc sách khổ lớn, các hộp đựng đồ ăn trưa, đồ chơi, các bức họa và ảnh, kỷ nguyên đó chắc phải tràn ngập các cô nàng ngực bự, tóc buông dài trong những chiếc mũ cao bồi, những chiếc khăn quàng nhỏ dễ thương, váy bằng da lộn và áo khoác thêu cũng như mấy đôi bốt đẹp nhất từng được làm ra. Kathryn Dance mê mẩn kiểu thời trang này và sở hữu hai đôi bốt Noconas được trang trí công phu. Nhưng không đôi nào sánh nổi với đôi bốt đã mòn của Dale Evans và đối tác là Roy Roger trong chương trình truyền hình những năm 1950, trên hình ảnh ấn tượng của tấm poster đã bạc màu.
Tại quán bar, cô gọi một cốc trà chanh, nhanh chóng tu hết rồi gọi thêm cốc nữa. Cô ngồi tại một trong những chiếc bàn tròn, bị cắt khía nham nhở và đánh véc ni hơi quá, quan sát một nhóm khách hàng. Hai cặp vợ chồng già, một nhóm ba công nhân tiện ích mặc áo liền quần, có vẻ mệt mỏi, những người có khả năng làm việc vào lúc bình minh. Một thanh niên gầy còm mặc quần jean và áo sơ mi kẻ sọc vuông, đang nghiên cứu chiếc máy hát tự động kiểu cũ. Và một số doanh nhân mặc sơ mi trắng, cà vạt đen, không mặc vest.
Cô đang mong chờ được gặp Kayleigh để thu âm các bài hát của nhóm Los Trabajadores và thèm được ăn trưa. Cô đang đói ngấu.
Và lo lắng.
Đã một giờ hai mươi rồi. Bạn cô đang ở đâu?
Âm nhạc từ chiếc máy hát tự động lấp đầy không gian. Dance nở nụ cười yếu ớt. Máy đang phát một nhạc phẩm của Kayleigh Towne - cũng là một lựa chọn đặc biệt tốt, nếu xét đến nơi gặp mặt này: “Tôi ư? Tôi Không Phải Là Gái Cao Bồi”.
Ca khúc nói về một bà mẹ là cầu thủ ở khu ngoại ô, dường như cô ta sống một cuộc sống rất khác so với cuộc sống của một cô gái cao bồi. Nhưng đến cuối cùng cô ta nhận ra có lẽ mình là cô gái cao bồi từ trong tâm hồn. Ca khúc điển hình trong số các ca khúc của Kayleigh, vui vẻ nhưng nói lên được nhiều điều ý nghĩa với mọi người.
Đúng lúc này cửa trước bật mở, một vạt nắng chói gắt chiếu vào sàn nhà lót vải sơn đã mòn, hắt lên những cái bóng chập chờn mang nhiều hình dạng của các vị khách đang tiến vào.
Dance đứng dậy. “Kayleigh!”
Bị bốn người khác vây quanh, nàng ca sĩ trẻ bước vào trong nhà hàng, mỉm cười nhưng vẫn liếc nhanh xung quanh. Cô bé đang gặp rắc rối, Dance để ý ngay lập tức. Không, còn hơn thế nhiều. Kayleigh Towne đang sợ hãi.
Nhưng mọi nỗi lo lắng bị phát hiện ở nơi này thoáng tan biến, cô bé lấy lại vẻ thoải mái khi chạy đến ôm chầm lấy Dance. “Chào chị Kathryn. Tuyệt quá!”
“Chị không thể đợi được gặp em tại đây.”
Nàng ca sĩ mặc quần jean, điều lạ lùng là khoác thêm chiếc áo choàng denim dày, dù trời rất nóng. Mái tóc đáng yêu của cô bé buông xõa, dài gần chấm gót.
Dance nói thêm, “Chị đã gọi cho em hai lần”.
“Đã có... à đã có chút rắc rối tại nhà hát. Ổn cả rồi. Mọi người ơi, đây là bạn tôi, Kathryn Dance.”
Dance chào Bobby Prescott, người cô mới gặp vài năm trước, ngấp nghé tuổi ba mươi, có vẻ ngoài của một diễn viên không ăn dơ với nụ cười bẽn lẽn, mái tóc nâu lượn sóng. Còn có cả Tye Slocum béo lùn và nhút nhát đến hết thuốc chữa, với mái tóc dài hung đỏ cần được cắt tỉa. Anh là thợ sửa chữa kiêm kỹ thuật viên guitar của ban nhạc. Alicia Sessions nghiêm nghị, vóc dáng khỏe mạnh đang nhìn Dance, trông cô ấy như thành viên của một câu lạc bộ nhạc punk rock ở trung tâm Manhattan, là trợ lý riêng của Kayleigh.
Còn một người nữa cũng đi trong đoàn. Một người đàn ông Mỹ gốc Phi, cao khoảng hơn mét tám, nặng cỡ một trăm mười ba cân.
Một vệ sĩ.
Thực tế Kayleigh có vệ sĩ không phải điều ngạc nhiên, dù Dance thấy khó chịu khi để ý thấy anh ta quá chăm chú vào công việc của mình, kể cả ở đây. Anh ta cẩn thận xem xét tất cả mọi người trong quán bar - người thanh niên cạnh máy nghe nhạc tự động, đám công nhân, thương nhân và ngay cả cặp vợ chồng già cùng người đứng tại quầy bar. Rõ ràng đang rà soát gương mặt họ qua dữ liệu trong đầu về những mối đe dọa tiềm năng.
Đã xảy ra chuyện gì thế?
Không thể phát hiện ra bất kỳ mối đe dọa nào cần bảo vệ ở đây, anh ta chuyển sự chú ý sang Kayleigh. Nhưng anh ta vẫn không thoải mái. Những người làm công việc như anh ta không làm thế - và điều đó khiến họ trở nên lợi hại. Anh ta chuyển sang trạng thái chờ đợi. “Trông chị ổn đấy.”
Tên anh ta là Darthur Morgan. Khi bắt tay Dance, anh ta dò xét cô kỹ lưỡng, ánh mắt thoáng tia hiểu biết. Là một chuyên gia về nghiên cứu ý nghĩa cử chỉ và ngôn ngữ cơ thể, Dance biết mình vừa phát ra những xung động của “cớm”, ngay cả khi cô không cố tình.
“Cùng ăn trưa với tụi này đi”, Kayleigh nói với anh chàng cao lớn.
“Không, cảm ơn cô. Tôi sẽ ở ngoài kia.” “Không được, trời nóng lắm.”
“Tốt hơn tôi nên ở ngoài đó.”
“Được rồi, cầm theo ly trà chanh hay soda đi. Nếu muốn vào cứ tự nhiên nhé.”
Nhưng chẳng cần gọi đồ uống, anh ta chậm rãi cố gắng len qua nhà hàng tối mờ, liếc mắt một lần nhìn bức tượng sáp mang hình cô gái chăn bò đang quăng dây, rồi bước ra ngoài.
Anh chàng phục vụ quầy bar còm nhom mang menu đến bàn, không che giấu sự ngưỡng mộ mạnh mẽ dành cho Kayleigh Towne. Cô bé mỉm cười với chàng thanh niên như các bà mẹ vẫn làm, cho dù họ sàn sàn tuổi nhau.
Kayleigh liếc nhìn máy chơi nhạc tự động, xấu hổ khi thấy họ đang nghe dạ khúc mà cô bé hát.
“Vậy là có chuyện gì?”, Dance hỏi.
“Được rồi, em sẽ nói với chị.” Cô bé giải thích rằng khi mình đang chuẩn bị cho buổi hòa nhạc tối thứ Sáu thì một dãy đèn sân khấu bị tuột ra và rơi xuống.
“Lạy Chúa. Em không sao chứ?”
“Vâng, em không sao. Ngoài cái mông ê ẩm.”
Bobby đang ngồi kế bên Kayleigh, nắm chặt cánh tay cô bé. Anh nhìn cô bé trấn an. “Tôi không biết chuyện đó xảy ra thế nào”, anh nói bằng giọng trầm. “Tôi muốn nói đó là một dãy đèn đa mạch, một thiết bị chiếu sáng CYC13. Cô không lắp nó cho buổi diễn rồi tháo ra được. Mà nó được gắn cố định ở đó.”
1 Tức là đèn Cyclodrama, hay còn được gọi là strip light, border light v.v... là một dãy gồm nhiều bóng đèn được gắn vào nhau, chạy suốt chiều dài sân khấu, chiếu sáng phông sân khấu.
Những đôi mắt lảng tránh nhau, Tye Soclum mập mạp đề nghị, “Và anh đã kiểm tra rồi đấy, Bobby. Tôi đã thấy anh làm thế với toàn bộ số bóng đèn những hai lần. Bobby là chuyên gia về thiết bị biểu diễn xuất sắc nhất nơi này. Trước nay chưa từng xảy ra tai nạn nào như thế”.
“Nếu mà nó rớt trúng cô ấy”, Alicia nói, tông giọng ẩn chứa cơn giận dữ. “Trời ạ, hẳn mọi chuyện sẽ là như thế. Nó có thể giết chết cô ấy.”
Bobby nói thêm, “Một dãy đèn một nghìn watt. Nếu đống đèn đấy vỡ hết, chúng hẳn có thể đã thiêu cháy toàn bộ chỗ đó. Tôi đã ngắt công tắc điện chính trong trường hợp có hỏa hoạn. Tôi sẽ kiểm tra kỹ lưỡng hơn nữa khi quay lại đó tối nay. Tôi phải đến Bakersfield kiếm bộ ampli và loa mới”.
Thế rồi không ai nói đến biến cố này nữa, họ cùng gọi bữa trưa. Dance đang phải lấy lại sức sau vụ bắt cóc kéo dài suốt hai tuần - cô sụt mất khoảng bốn cân - và quyết định tiêu pha thoải mái khi gọi khoai tây chiên với sandwich thịt gà nướng. Kayleigh và Tye gọi salad trộn dầu giấm. Alicia và Bobby gọi bánh tôm và chọn cà phê, bất chấp cái nóng. Cuộc đối thoại chuyển sang trang web âm nhạc của Dance, cô trò chuyện một chút về những nỗ lực không thành của mình khi làm ca sĩ tại San Francisco.
“Kathryn có một giọng hát tuyệt vời”, Kayleigh nói, làm lộ vài dấu hiệu dối trá trong ngôn ngữ cử chỉ. Dance mỉm cười.
Giọng một người đàn ông cắt ngang, “Xin lỗi các bạn. Chào Kayleigh”. Chính là người thanh niên ngồi cạnh máy nghe nhạc tự động.
Miệng mỉm cười, anh ta gật đầu với Dance, mọi người ngồi quanh bàn rồi nhìn xuống Kayleigh.
“Xin chào.” Giọng nói của nàng ca sĩ bất ngờ chuyển sang tông khác hẳn, vui vẻ nhưng đề phòng.
“Tôi không có ý nghe lỏm. Nhưng tôi nghe nói có chút rắc rối. Cô không sao chứ?'
“Tôi ổn, cảm ơn.”
Im lặng một lúc, kiểu im lặng như muốn nói: Tôi biết ơn cậu quan tâm nhưng giờ không phải lúc nói chuyện.
Kayleigh nói. “Anh là fan hâm mộ à?” “Chắc chắn rồi.”
“Cảm ơn anh nhiều vì đã ủng hộ. À buổi hòa nhạc thứ Sáu này anh sẽ đến xem chứ?”
“Ồ cô đoán trúng rồi. Tôi sẽ tới. Dại gì mà bỏ lỡ nó. Cô chắc là mình ổn cả chứ?”
Tất cả ngập ngừng một lúc và sắp bước vào trạng thái không thoải mái. Có lẽ Kayleigh đang tiêu hóa nốt câu cuối cùng.
“Tất nhiên rồi.”
Bobby nói, “Được rồi, anh bạn. Anh bạn bảo trọng nhé. Chúng tôi sẽ quay lại vào bữa trưa”.
Như thể người thợ kỹ thuật còn chưa nói rõ, cậu thanh niên cất lời với tiếng cười nghe rõ cả hơi thở, “Cô không nhận ra tôi, đúng không?”.
“Xin lỗi”, nàng ca sĩ ướm hỏi.
Alicia nói chắc nịch, “Nếu anh không phiền, cô Towne muốn được riêng tư”.
“Chào Alicia”, anh ta nói với cô ấy.
Người trợ lý riêng chớp mắt. Rõ ràng cô ấy không nhận ra người này và đang tự hỏi làm sao anh ta biết tên mình.
Thế rồi anh ta cũng làm ngơ cô ấy luôn, lại phá lên cười, giọng cao vút và nghe thật kỳ cục. “Là tôi đây mà, Kayleigh! Edwin Sharp. Cái bóng của em.”