Điều kiện những người đi trên con đường tỉnh giác cần có
Điều các bậc hữu học nên tu học
Kinh Hữu Học (Sekha Sutta) chỉ có bản tiếng Pāli. Kinh này bắt nguồn từ việc một nhóm người thuộc tộc Thích Ca (Sākya) tại thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) mời Đức Phật đến ở giảng đường mới xây, hy vọng nhờ việc này giảng đường mới được gia trì, chúc phúc. Sau khi thọ trai và khai thị, Đức Phật đặc biệt ra lệnh cho Tôn giả A Nan thuyết giảng Đạo Hữu học (sekha paṭipada) cho các cư sĩ này.
Tôn giả A Nan thuyết giảng những điều hàng Thánh Thanh văn, Thánh đệ tử (ariya-sāvaka) nên tu học trong Đạo Hữu học:
1. Có đầy đủ giới hạnh (sīla-sampanna).
2. Giữ gìn các căn (indriyesu guttadvāra).
3. Tiết chế ăn uống (bhojane mattaññū).
4. Thường tỉnh thức (jāgariyaṁ anuyutta).
5. Gồm đầy đủ 7 ưu điểm (sattahi saddhamme-hi samannāgata).
6. Tự tại chứng nhập tứ thiền.
Nội dung của Đạo Hữu học cũng chỉ đề cập đến tứ thiền, không nhắc đến tứ vô sắc định hay tưởng thọ diệt định. Điều thú vị hơn cả là kinh này đã miêu tả tứ thiền và lấy các ví dụ để giải thích về tiềm lực thành tựu tứ thiền rất chi tiết, hấp dẫn. Kinh này nói đến chứng đắc tứ thiền là đắc tăng thượng tâm (adhicetasika), là hiện pháp lạc trú (diṭṭha-dhamma-sukha-vihāra).
Tứ thiền của tăng thượng tâm và hiện pháp lạc trú này có thể tùy tâm mong muốn mà chứng nhập, cho nên gọi là chứng đắc không khó khăn (nikāma-lābhi), chứng đắc không mệt nhọc (akiccha-lābhi), chứng đắc không phí sức (akasira-lābhi).
Kinh này đưa ra một ví dụ, những hành giả có đầy đủ các điều kiện trên cũng giống như một quả trứng gà tốt, không có chút hư tổn nào, đã được ấp đến giai đoạn sắp nở. Gà mái không cần phải nghĩ rằng “gà con sắp nở rồi”, đúng thời điểm thì gà con tự nhiên sẽ phá vỏ chui ra.
Khi hành giả chứng đắc tứ thiền, vào ra tự tại, vị ấy chính là người có đủ sức mạnh đột phá, có đủ năng lực để trở thành bậc Chánh đẳng chánh giác, có khả năng chứng đạt vô thượng, an ổn khỏi các trói buộc. Vị ấy có thể hồi tưởng lại các kiếp của mình trong quá khứ một cách hết sức tự nhiên, có thể thấy sự sống chết của chúng sinh hữu tình, đạt đến vô lậu, diệt trừ hết thảy các lậu, nghĩa là đạt được tâm giải thoát và tuệ giải thoát ngay trong đời này.
Kinh này cũng giải thích thế nào là minh hạnh túc (vijjā-caraṇa-sampanno). Những điều Thánh đệ tử nên tu học để đạt thành tựu viên mãn, chính là điều kiện từ 1 ~ 6 đã nêu ở trên, tức là các hạnh viên mãn đầy đủ (caraṇa-sampanno), từ nền tảng đó chứng đắc được ba loại “Tri” (ñāṇa), đó chính là các “Minh” đều đầy đủ (vijjā-samapanno).
Bài kinh sau, Đại Kinh Đoạn Tận Ái, bàn luận về lậu tận từ duyên “ái” trong 12 nhân duyên, tứ thiền là một trong những điều kiện để đạt lậu tận.
Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli - Kinh Hữu Học, M.I.353~359, Majjhima Nikāya, no.53 Sekha Sutta.
2. Kinh này không có bản Hán dịch.
3. Bản dịch tiếng Anh, The Disciple in Higher Training, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 460~465, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.
Hiểu biết nhiều hơn
Những điều các bậc Thánh đệ tử nên tu học: