Đoạn trừ ái - viên mãn thành tựu tánh giác
Tu tứ thiền, đoạn lậu từ chi “ái”
Đại Kinh Đoạn Tận Ái (Mahā-taṇhā-saṅkhaya Sutta) tương đương với Kinh Trà Đế trong Trung A Hàm. Kinh bắt nguồn từ việc Đức Phật đính chính ác kiến (pāpaka diṭṭhi-gata, pernicious view) của Tỳ kheo Sati (Bhikkhu Sāti). Bản Hán dịch đặt tên theo đối tượng thuyết pháp, nên có tên là Kinh Trà Đế. Bản tiếng Pāli và bản dịch tiếng Anh, The Greater Discourse on the Destruction of Craving, do Tỳ kheo Bodhi dịch thì đặt tên kinh theo nội dung. Taṇhā là một duyên trong 12 nhân duyên. Thời cổ đại, Hán dịch là “ái”, bản dịch Tiếng Anh là “craving”, nghĩa là ham muốn, mong cầu mạnh mẽ.
Tỳ kheo Sāti đã giải thích sai lời dạy của Đức Phật. Ông ta nói rằng:
Ta hiểu các pháp của Đức Phật như vậy, cũng có nghĩa là cùng một thức ấy lưu chuyển trong dòng luân hồi mà không phải là một thức khác.
“Tathā ‘haṁ Bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi yathā tad ev’ idaṁ viññāṇaṁ sandhāvati saṁsarati, anaññan-ti”1.
1 M.I.256.
Tỳ kheo Sāti cho rằng có một thức thực thể tồn tại từ kiếp quá khứ đến kiếp hiện tại, từ kiếp hiện tại đến kiếp tương lai, thậm chí đời đời kiếp kiếp đều là một thức này lưu chuyển trong dòng luân hồi. Các Tỳ kheo khác đều biết rằng, Thế Tôn nói thức nương theo duyên mà sinh. Các Tỳ kheo đính chính lại lời của Tỳ kheo Sāti:
Thế Tôn dùng các phương tiện để thuyết pháp rằng: thức nương theo duyên mà sinh, không có duyên thì thức cũng không sinh khởi.
“Anekapariyāyena paṭicca-samuppannaṁ
viññāṇaṁ vuttaṁ Bhagavatā:
aññatra paccayā na-tthi viññāṇassa sambhavo ti”2.
2 M.I.259.
Các Tỳ kheo khuyến cáo ông ta không nên hiểu sai ý của Đức Phật, nhưng ông ta kiên quyết không từ bỏ tà kiến của mình. Các Tỳ kheo chỉ còn cách đi thưa với Đức Phật. Đức Phật giải thích cho ông ta sự sinh khởi của các thức. Nhân việc này, Ngài nói rằng: các pháp vì nhân duyên mà sinh, các pháp vì nhân duyên mà diệt. Đây là pháp duyên khởi hết sức thâm sâu, vi diệu.
Duyên sinh nói rõ các chúng sinh hữu tình lưu chuyển trong dòng sinh tử luân hồi như thế nào, duyên diệt cũng chỉ ra các chúng sinh hữu tình thoát ly khỏi sinh tử luân hồi như thế nào. Trong quá trình duyên diệt này, Thế Tôn chỉ dạy việc tu học bao gồm tứ thiền. Điều kiện về tứ thiền này cũng đủ khả năng đoạn trừ ái, từ đó dứt hết mọi hữu lậu, đạt giải thoát rốt ráo. Kinh Sáu Điều Thanh Tịnh, càng chỉ ra cụ thể hơn tứ thiền là điều kiện cơ bản có thể biết, có thể thấy để đoạn ngã và ngã sở kiến.
Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli - Đại Kinh Đoạn Tận Ái, M.I.256~271, Majjhima Nikāya no.38 Mahātaṇhāsaṅkhaya Sutta.
2. Bản Hán dịch, Trung A Hàm - Kinh Trà Đế, T01.766c~769c.
3. Bản dịch tiếng Trung, Kinh Trung Bộ, trang 302~319, Ái Tận Đại Kinh, Ryūshō Hikata (干潟 龍祥) dịch ra tiếng Nhật, Giang Luyện Bách dịch ra tiếng Trung, Đài Bắc: Hội in kinh Tín Nguyện Hạnh, 2006.
4. Bản tiếng Anh, The Greater Discourse on the Destruction of Craving, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 349~361, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.
Hiểu biết nhiều hơn
1. Đức Phật giải thích Thức sinh khởi như thế nào?
2. Pháp Duyên sinh