Thực tu, thực chứng là sự tán thán chân thực
Tứ thiền, tam minh, giải thoát tri kiến là dấu chân của Như Lai, là điều Như Lai nương vào, là điều Như Lai sử dụng
Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi có hai trọng điểm: (i) Đánh giá của Đức Phật về tứ thiền và tam tri. (ii) Đức Phật nhấn mạnh sự chứng đắc giải thoát tri kiến.
Nguồn gốc kinh này là Bà la môn Jāṇussoṇi gặp ẩn sĩ Pilotika của dòng họ Vaccha trên đường. Sau khi chuyện trò, Jāṇussoṇi sinh lòng kính ngưỡng Đức Phật. Vị này lập tức liền đánh xe bò trắng lớn đến yết kiến Thế Tôn. Hóa ra lòng kính ngưỡng của ông ta đối với Đức Phật xuất phát từ việc Pilotika khen ngợi Đức Phật.
Pilotika dùng ví dụ dấu chân voi để giải thích cho vị Bà la môn này biết tại sao Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, pháp được Thế Tôn khéo giảng và tăng chúng khéo hành trì. Nói cách khác, ông ta quan sát các hiện tượng và suy luận rằng Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng viên mãn, vì thế ông vô cùng tán thán Đức Phật.
Pilotika nói rằng cũng giống như nhìn thấy một dấu chân voi rất to thì biết đó là một con voi rất to, khi ông ta thấy dấu tích của bốn sự việc thì liền biết rằng Thế Tôn không chỉ là một bậc giác ngộ viên mãn mà Ngài còn truyền dạy phương pháp giác ngộ này cho những người kính tín và đi theo Ngài. Một số đệ tử của Thế Tôn đã tu tập một cách chính xác theo những gì Ngài dạy bảo, hơn nữa có nhiều đệ tử chứng đắc giải thoát rốt ráo. Ông kết luận rằng: Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, pháp được Thế Tôn khéo giảng và tăng chúng khéo hành trì.
Dấu chân đầu tiên của Thế Tôn có liên quan đến một số vị lãnh đạo các giáo phái khác, họ đều là những bậc bác học sáng suốt (khattiya-paṇḍita) muốn tranh biện với Đức Phật và đả phá Ngài, nhưng ngược lại được Đức Phật dẫn dắt quy y theo Ngài.
Dấu chân thứ hai liên quan đến một số Bà la môn bác học sáng suốt (brāhmaṇa-paṇḍita), họ cũng muốn tranh biện và đả phá giáo lý của Đức Phật, nhưng kết quả họ được Đức Phật khuyên nhủ và quy y.
Dấu chân thứ ba liên quan đến một số gia chủ (cư sĩ) bác học sáng suốt (gahapati-paṇḍita), họ cũng muốn tranh biện và đả phá giáo lý của Đức Phật, nhưng cuối cùng lại bị Đức Phật thuyết phục và quy y.
Dấu chân thứ tư liên quan đến một số Sa môn bác học sáng suốt (samaṇa-paṇḍita), họ không tranh biện mà thỉnh cầu xuất gia với Đức Phật. Sau khi theo Đức Phật xuất gia không bao lâu, họ chứng đắc và an trú trong giải thoát rốt ráo, thành tựu bậc cao nhất của việc tu tập phạm hạnh.
Khi nghe Jāṇussoṇi thưa lại những lời tán thán của Pilotika, Đức Phật dạy: dù đã nhìn thấy bốn dấu chân này vẫn chưa đủ để đưa ra kết luận chính xác rằng: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, pháp được Thế Tôn khéo giảng và tăng chúng khéo hành trì”. Những việc này chẳng qua chỉ là những biểu hiện bên ngoài, người đưa ra kết luận này bản thân không tự chứng đắc các thành tựu ấy.
Ý của Đức Phật là cần phải tự thân chứng đắc giải thoát rốt ráo thì mới có thể đưa ra kết luận này một cách chính xác. Đức Phật thuyết giảng rằng lần lượt chứng đắc tứ thiền, tam tri (ñāṇa) và giải thoát tri kiến mới được xem là đạt đến kết luận đúng đắn.
Trọng điểm của kinh này là ở đây, câu trả lời của Đức Phật thể hiện sự đánh giá của Ngài về tứ thiền, tam tri và giải thoát tri kiến. Theo như Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi, Đức Phật nói về tứ thiền, tam tri và giải thoát tri kiến “là dấu chân của Như Lai, là điều Như Lai nương tựa, là điều Như Lai sử dụng”, nguyên văn tiếng Pāli là:
“Tathāgata-padaṃ iti pi, Tathāgata-nisevitaṃ iti pi, Tathāgatā-rañjitaṃ iti pi.” (M.I.182~4)
“This too is called a footprint of the Tathāgata, something scraped by the Tathāgata, something marked by the Tathāgata.” (BB:M.277)
Kinh Dụ Dấu Chân Voi (Kinh Tượng Tích Dụ) trong bản Hán dịch Trung A Hàm chép như sau: “Đợi đến khi thành tựu thiền thứ tư, này Phạm chí, đó là điều mà Như Lai điều phục, Như Lai thực hành, Như Lai sử dụng… Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng, hướng tâm đến lậu tận tri để chứng đắc… sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, biết chân thực như vậy, này Phạm chí, đó gọi là Như Lai”1.
1 Đại Chánh Tạng, Kinh Trung A Hàm, tr 658a7-17. Người dịch trích từ bản dịch của Tuệ Sỹ, Kinh Trung A Hàm Tập 1, 146. Kinh Tượng Tích Dụ, NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2008, trang 1110.
Nói cách khác, tứ thiền và tam tri là con đường Như Lai đã đi qua trong quá khứ từ quá trình tu đạo đến thành Phật. Trong kinh này, Đức Phật nói đến tứ thiền và tam tri là “dấu chân trên đường chứng đạo của Như Lai” (Tathāgata-pada). Trong tiếng Pāli, pada có nghĩa là chân, dấu chân. Tứ thiền và tam tri là lộ trình mà Đức Phật trải qua từ lúc tu đạo, từ khi chưa thành Phật cho đến lúc thành Phật, cho nên ở đây pada có nghĩa là dấu chân.
Kinh Trung A Hàm Hán dịch là “Như Lai sở khuất” (如來所屈). Khuất (屈) có hai nghĩa: cùng tận (窮盡), kiệt tận (竭盡); chiết phục (折服), hàng phục (降服). Hai nghĩa này đồng thời vừa khéo lột tả được việc Như Lai nắm vững và vận dụng triệt để tứ thiền và tam tri.
Nếu lấy ý nghĩa đầu là “cùng tận” hoặc “kiệt tận” thì thể hiện Như Lai hoàn toàn hiểu thấu tứ thiền và tướng chân thực của tứ thiền, cũng như những tiềm năng tứ thiền có thể mang đến cho hành giả. Sự thấu hiểu này không những giúp cho Ngài hiểu được vai trò của tứ thiền trên bước đường thành tựu giải thoát, mà còn có thể ứng dụng để đạt đến mục tiêu cuối cùng của việc tu tập phạm hạnh là đạt được cứu cánh Niết bàn ngay trong đời này. Ngoại đạo cho rằng bản thân tứ thiền là cảnh giới giải thoát, Đức Phật lại cho rằng tứ thiền chỉ là công cụ giải thoát.
Nếu lấy nét nghĩa thứ hai là “chiết phục” hoặc “hàng phục” thì thể hiện rõ Như Lai không bị mê hoặc bởi lạc cảnh thiền định của tứ thiền. Hành giả muốn kiếp này chứng đắc Niết bàn thì trước tiên phải hàng phục được cảnh giới vi diệu của tứ thiền, cũng có nghĩa là có thể chứng nhập, an trú trong tứ thiền. Khi ra khỏi tứ thiền cũng vẫn tự do, tự tại; hơn nữa không bị cuốn theo sức mạnh của tứ thiền để sinh vào cảnh giới trên và không dựa vào sức mạnh ấy để đạt được các biến hóa thần thông siêu xuất hơn hẳn người thường để khoe khoang với người khác. Ngược lại, hành giả có thể nhờ vào sức mạnh của tứ thiền này để tiến đến mục tiêu giải thoát rốt ráo theo lời Đức Phật dạy, nghĩa là đạt được cứu cánh Niết bàn ngay trong hiện tại.
Theo Kinh Hữu Học đã nêu ở đoạn trước, Tôn giả A Nan vâng theo chỉ thị của Đức Phật, thuyết giảng đạo Hữu học cho các cư sĩ tộc Thích Ca, trong đó, nội dung đề cập đến mức độ thuần thục trong việc tu trì tứ thiền hoàn toàn trùng khớp với kinh này. Kinh này cũng nhấn mạnh: hành giả trước tiên có thể chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức đối với tứ thiền. Hành giả Gotama chứng nhập, an trú, ra khỏi tứ thiền đều rất tự tại, thậm chí còn chứng đắc tam minh, vô sở dư lậu một cách tự tại mà đạt giải thoát rốt ráo. Cho nên, người ta nói rằng: tứ thiền và tam minh là những điều Như Lai thấu triệt cùng tận, là những điều Như Lai trải nghiệm, tu chứng triệt để.
Theo Kinh Nikāya và A Hàm, có không ít kinh điển đề cập đến việc sau khi Như Lai thành đạo cũng thường an trú trong tứ thiền. Trong kinh này, Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi, Đức Phật nói rằng tứ thiền và tam minh là điều Như Lai nương tựa vào (Tathāgata-nisevita). Trong tiếng Pāli, nisevita bắt nguồn từ động từ nisevati, có rất nhiều ý nghĩa như nương tựa vào, tìm sự trợ giúp, luyện tập, truy cầu, đi theo, hưởng dụng, sa vào, ngập sâu vào, nơi thường đi đến. Trong kinh này, chúng tôi muốn lấy nghĩa “nơi thường đi đến”, “hưởng dụng”, “nương tựa vào”. Ý nghĩa của nó giống như trong bản Hán dịch là “điều Như Lai làm, Như Lai sử dụng”.
Sau khi thành đạo, Đức Phật thường an trú trong tứ thiền. Theo Đại Kinh Saccaka, Đức Phật nói rằng sau khi thuyết pháp cho các đệ tử hoặc cho các Sa môn, Bà la môn, cư sĩ khác, Ngài khiến tâm mình ổn định (ajjhattam’eva cittaṃ saṇṭha-pemi), tĩnh tại (sannisādemi), chuyên nhất (ekodi-karomi), an trú trong tướng thiền định mà Ngài vẫn thường an trú1.
1 M.I.249
Pāli chú sớ cũng nói rằng đây là “Định không quả” (suññata-phala-samāpatti) chứ không nói là tưởng thọ diệt định. “Định không” cũng là loại thiền định lấy thiền thứ tư làm nền tảng xuất phát.
Tứ thiền không chỉ là con đường Như Lai đi qua để chứng đắc viên mãn giác ngộ mà sau khi thành đạo Như Lai cũng thường an trú trong đó. Điều đáng chú ý hơn là Như Lai vận dụng nó làm trợ thủ dẫn dắt các đệ tử.
Đức Phật nói tứ thiền và tam minh là những thứ Như Lai sử dụng (Tathāgatā - rañjita). Trong tiếng Pāli, rañjit bắt nguồn từ động từ rañjeti, có nghĩa là bị nhiễm màu, nhiễm sắc, lấy đó làm vui, bị kích động. Làm vị thầy dẫn dắt chúng sinh là hạnh nguyện của Như Lai. Như Lai an lạc vì được làm điều này, cho nên tứ thiền là “thứ Như Lai sử dụng”. Như Lai dùng sức mạnh của tứ thiền quán sát căn tính của chúng sinh để hướng dẫn các pháp môn tu hành thích hợp.
Hán cổ dịch là “Như Lai điều phục”, nghĩa là thứ mà Như Lai tùy ý dùng hoặc sử dụng. Sau khi thành đạo, hàng ngày, Đức Phật nhập thiền là loại thiền định có giác có tri, nghĩa là thiền thứ tư, mà không phải là tưởng thọ diệt định vô giác vô tri.
Ví dụ như, trong Kinh Vô Vấn Tự Thuyết (Udā-na) có một việc thể hiện rõ Đức Phật trú trong thiền định có giác và có tri. Có một lần, một nhóm Tỳ kheo từ phương xa đến xin yết kiến Đức Phật để được nghe pháp. Họ đến tinh xá của Đức Phật vào lúc hoàng hôn, Tôn giả A Nan đưa họ đi nghỉ ngơi trước, sau đó thưa với Đức Phật và thỉnh Ngài khai thị cho nhóm Tỳ kheo này. Lúc đó, Đức Phật đang tĩnh tọa, không có phản ứng gì.
Đợi đến gần nửa đêm, thấy Đức Phật vẫn chưa đi gặp nhóm Tỳ kheo kia, A Nan lại một lần nữa thỉnh Ngài đi gặp họ. Đức Phật vẫn không phản ứng gì. Đến gần sáng, Tôn giả A Nan lại thỉnh Đức Phật đi khai thị cho họ lần thứ ba.
Lần này, Đức Phật xuất định, nói với Tôn giả A Nan rằng: “A Nan à, ta đã đi gặp nhóm Tỳ kheo đó và cũng đã khai thị cho họ rồi”. Đức Phật cả đêm không rời khỏi chỗ ngồi, sao đến sáng lại nói đã đi gặp nhóm Tỳ kheo đó. Điều này cho thấy: Đức Phật đã đi gặp và khai thị cho nhóm Tỳ kheo đó trong định. Loại định này không phải là tưởng thọ diệt định vô tri vô giác. Tưởng thọ diệt định là loại định mà cả tưởng và thọ đều ngừng nghỉ tác dụng của mình, là loại định vô tri vô giác.
Nhưng lần này loại định Đức Phật nhập chính là lấy thiền thứ tư làm nền tảng, dựa vào sức mạnh thiền thứ tư mang lại để khởi phát siêu năng lực, đi gặp nhóm Tỳ kheo và thuyết pháp cho họ. Hành giả chứng nhập thiền thứ tư có thể có các loại siêu năng lực, đem lại lợi lạc cho mình và cho người khác; còn hành giả chứng nhập tưởng thọ diệt định thì giống như người chết, chỉ có thể đem lại niềm vui cho bản thân mình mà không thể làm lợi lạc cho người khác.
Trọng điểm thứ hai của Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi là Đức Phật nhấn mạnh việc chứng đắc giải thoát tri kiến. Đoạn trước có nói đến tứ thiền, tam minh là dấu chân trên đường đạo của Như Lai, là điều Như Lai nương vào, là thứ Như Lai sử dụng. Tiếp đó, chúng ta hãy xem xem Đức Phật nhấn mạnh việc tự thấy và tự biết của giải thoát rốt ráo như thế nào. Quá trình chứng đắc tri thứ ba (Lậu tận tri) của các hàng Thánh đệ tử có hai tầng bậc:
(i) Các bậc Thánh đệ tử hướng tâm đến lậu tận tri (āsavānaṃ-khaya-ñāṇāya cittaṁ abhininnāmeti).
Vị đó biết một cách chân thực (yathābhūtaṁ paānāti) khổ, tập, diệt, đạo, cũng có nghĩa là:
Đây là khổ... đây là nguyên nhân của khổ... đây là khổ diệt... đây là con đường diệt khổ.
Đây là lậu hoặc... đây là nguyên nhân của các lậu hoặc... đây là các lậu hoặc bị diệt... đây là con đường đoạn diệt các lậu hoặc.
Theo như Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi, các bậc đệ tử chứng đắc tầng bậc này vẫn chưa được coi là đủ tư cách có thể đưa ra kết luận: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, pháp được Thế Tôn khéo giảng và tăng chúng khéo hành trì”. Nhưng Đức Phật nói rằng, vị đó đang đi trên con đường dẫn tới kết luận chân chính. Các bậc Thánh đệ tử muốn đạt được kết luận chân chính này thì ắt phải chứng nhập vào tầng bậc thứ hai.
(ii) Chứng đắc giải thoát tri kiến:
“Khi vị ấy biết như vậy và thấy như vậy, tâm của vị ấy được giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Vị đó hoàn toàn hiểu rằng: sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh trở lại nữa”.
Lúc đó, vị Thánh đệ tử này mới được xem là đạt đến kết luận chân chính: “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, pháp được Thế Tôn khéo giảng và tăng chúng khéo hành trì”.
Kinh này nhấn mạnh các hàng Thánh đệ tử không những phải tự thân chứng đắc lậu tận tri mà còn phải tự biết tự thấy, không cần nhờ người khác chứng thực bản thân mình đã đắc lậu tận. Bài kinh quan trọng này thuật lại “Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, pháp được Thế Tôn khéo giảng và tăng chúng khéo hành trì”, cũng chỉ nhắc đến tứ thiền, không hề nhắc đến tứ vô sắc định và tưởng thọ diệt định.
Kinh sau, Kinh Không Gì Chuyển Hướng (Kinh Apaṇṇaka), Đức Phật hướng dẫn các cư sĩ Bà la môn làm sao để sống được hạnh phúc và vui vẻ, cũng không hề đề cập đến tứ vô sắc định và tưởng thọ diệt định.
Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli, Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi, M.I.175~184, Majjhima Nikāya no.27 Cūḷa-hatthi-padopama Sutta.
2. Bản Hán dịch, Trung A Hàm, phẩm Phạm Chí, Kinh Dụ Dấu Chân Voi, T01.656a~658a.
3. Bản dịch tiếng Trung, Kinh Trung Bộ, tr213~222, Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi, Ryūshō Hikata dịch ra tiếng Nhật, Giang Luyện Bách dịch ra tiếng Trung, Đài Bắc: Hội in kinh Tín Nguyện Hạnh, 2006.
4. Bản dịch tiếng Trung, Ám Dạ Quang Minh, Tạp chí Hương Quang Trang Nghiêm, kỳ số 98, tr156~169; Gia Nghĩa: Hương Quang Trang Nghiêm tạp chí xã, 2009.06.
5. Bản dịch tiếng Anh, The Shorter Discourse on the Simile of the Elephant’s Footprint, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 259~277, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.