Tu hành chớ có đi sai phương hướng
Phương pháp tu tập nào khiến đạo tâm thoái lui
Phương pháp tu tập nào đạt đến chánh quả
Du sĩ Sandaka và một nhóm du sĩ đi theo ông ta sáng sớm đã tranh luận về các vấn đề thế sự không liên quan gì đến việc tu hành tại động Pilakkha như: việc hoàng cung, việc các đại thần, việc trộm cắp, chiến sự, ẩm thực, y phục, các vật dụng trang sức như hoa, hương và các việc như việc họ hàng, bạn bè, việc thành phố, làng xóm. Khi thấy Tôn giả A Nan và một nhóm Tỳ kheo đi qua, ông liền thỉnh cầu Tôn giả A Nan thuyết giảng về pháp môn tu tập của thầy Tôn giả.
Tôn giả A Nan thuật lại Đức Phật đã từng giảng có hai loại phương pháp tu hành:
(i) Bốn phương pháp có thể khiến người ta từ bỏ ý nghĩ xuất gia tu hành, hơn nữa, cho dù có tu hành cũng sẽ không đạt được pháp thiện chân thực (ñāyaṁ dhammaṁ kusalaṁ);
(ii) Bốn loại phạm hạnh có thể khiến cho hành giả nản lòng, không đạt được pháp thiện chân thực.
(Chú thích trong bảng này:
Đoạn diệt luận của Ajita Kesakambalin1.
1 Ajita chủ trương vạn vật đều do bốn nguyên tố: đất, nước, lửa, gió hình thành. Con người cũng do bốn nguyên tố này tạo thành, khi thân thể hoại diệt, bốn nguyên tố này cũng theo đó mất đi. Chủ trương này thuộc trường phái Duy vật luận, Ajita là người đầu tiên sáng lập phái Thuận thế (Lokāyata). D.I. 55; M.I.401.
Thuyết những việc làm thiện ác không tạo ra quả báo thiện ác của Puraṇa Kassapa2.
2 Pūrana Kasyapa chủ trương những việc làm thiện ác không tạo ra quả báo thiện ác, hình thành thuyết “Vô đạo đức luận”. D.I.52; M.I.402.
Thuyết vô nhân vô duyên của Makkhali Gosāla1.
1 Makkhali là người đại diện cho thuyết Tà mạng ngoại đạo (Ājivika), cho rằng có 12 yếu tố cấu thành sự sinh tồn con người, bao gồm: linh hồn, đất, nước, lửa, gió, hư không, được, mất, khổ, vui, sinh, tử… Đó là những yếu tố duy trì sinh mạng này, phủ định thuyết luân hồi, đề xướng thuyết “Vô nhân”. D.I.53; M.I.403.
Thuyết bất khả tri luận (mê muội tin theo lời thầy) của Sañjaya Belaṭṭhiputta2.
2 Sañjaya chủ trương phủ nhận tính khách quan của nhận thức, đề xướng thuyết Bất khả tri luận (Ajñānavāda). D.I.58.
Vậy thì, phương pháp tu tập như thế nào mới là phạm hạnh chân chính, hơn nữa, sau khi tu tập theo phương pháp đó cũng đạt được pháp thiện chân thực chăng? Cũng giống như trong Kinh Kandaraka đề cập đến bốn loại người, giải thoát rốt ráo được Tôn giả A Nan nhắc đến trong kinh này cũng chỉ đề cập đến tứ thiền, tam minh và giải thoát tri kiến.
Cuối kinh có một số vấn đề đáng để chúng ta thảo luận:
(i) Những người đã thành tựu A la hán thì liệu có thể hưởng thụ dục lạc chăng?
Tôn giả A Nan không trực tiếp trả lời là có thể hay không thể, nhưng có nói rằng A la hán không còn phạm năm tội: sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và không hưởng thụ các dục đối với các loại thức ăn, nước uống như người tại gia.
(ii) Giải thoát tri kiến của A la hán có giống với tri kiến của các đạo khác không?
Câu hỏi này liên quan đến vấn đề hiển hiện giải thoát tri kiến, thể hiện sự khác biệt trong trí tuệ hiển hiện của Nigantha và lậu tận trí của Phật giáo.
Sandaka hỏi Tôn giả A Nan rằng: giải thoát tri kiến của A la hán liệu có phải cũng giống như tri kiến của đạo khác mà ông ta từng viếng thăm, hiển hiện không gián đoạn trong mọi thời gian và không gian. Người các đạo khác đã tự xưng là chứng đắc giải thoát có Nanda Vaccha, Kisa Sankicca, Makkhali Gosāla. Họ tự tuyên bố rằng giải thoát tri kiến của họ dù là đi, đứng, ngồi, nằm, thậm chí lúc ngủ cũng có thể hiển hiện.
Tôn giả A Nan lấy một ví dụ để chất vấn lại câu hỏi của Sandaka. Nếu một người tay chân đều bị chặt đứt thì liệu anh ta bất kể đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức liên tục không gián đoạn... có biết rằng “Tay chân của tôi đã bị chặt đứt” không? Hay chỉ khi hồi tưởng để xác nhận sự thực “Tay chân của tôi đã bị chặt đứt” thì anh ta mới biết như vậy? Sandaka trả lời: đương nhiên là khi hồi tưởng xác nhận sự thật này, anh ta mới biết như vậy.
Tôn giả A Nan giải thích rằng giải thoát tri kiến của A la hán cũng như vậy. Giải thoát tri kiến: “Biết như vậy, thấy như vậy, tâm ta đã lìa các dục, các lậu hoặc... phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh vào đời sau nữa”, không phải đều hiển hiện trong tất cả thời gian và không gian, bất kể khi đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức; mà chỉ khi nào họ hồi tưởng, xác nhận thì giải thoát tri kiến đó mới hiển hiện.
Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli, Kinh Sandaka, M.I.513~524, Majjhima Nikāya no.76 Sandaka Sutta.
2. Kinh này không có bản Hán dịch.
3. Bản dịch tiếng Anh, To Sandaka, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 618~628, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.