Phương pháp thu hoạch các loại tri thức
Thiền định, Chỉ - Quán, thành tựu đại thần thông và giải thoát
Vaccha tiếng Hán cổ dịch là Bà-sa, gotta nghĩa là chủng tộc, dòng họ; vacchagotta nghĩa là tộc Vaccha, dòng họ Vaccha. Kinh điển gọi vị du sĩ đến từ tộc Vaccha là du sĩ tộc Vaccha. Vacchagotta thường đến nghe Đức Phật thuyết pháp. Lần này ông tiếp tục đến thỉnh Đức Phật thuyết pháp. Lần thuyết pháp này đã khiến ông xuất gia theo Đức Phật, hơn nữa, trong thời gian ngắn ông đã chứng đắc giải thoát rốt ráo. Vậy, Đức Phật đã thuyết cho ông ta những pháp gì?
Đức Phật nói rằng bản thân mình có thể thuyết pháp một cách rộng khắp, cũng có thể thuyết pháp một cách giản lược. Và lần này, Đức Phật quyết định thuyết pháp giản lược cho Vacchagotta. Điều này dường như ngầm thể hiện Đức Phật hiểu được căn tính của ông ta. Cuối kinh ta có thể nhận ra điểm này.
Đức Phật thuyết giảng về ba pháp bất thiện và ba pháp thiện:
Đồng thời, Đức Phật cũng thuyết giảng về mười pháp bất thiện và mười pháp thiện:
Mười pháp bất thiện | Mười pháp thiện |
- Sát sinh (pāṇa-ātipāta) - Lấy của không cho (adinna-ādāna) - Tà dâm (kāmesu micchācāra) - Nói dối (musā-vāda) - Nói lời phỉ báng (pisuṇa) - Ác khẩu (pharusa) - Nói lời thêu dệt, vô nghĩa (sampha-ppalāpa) - Tham lam (abhijjhā) - Sân hại (byāpāda) - Tà kiến (micchā-diṭṭhi) |
- Không sát sinh - Không lấy của không cho - Không tà dâm - Không nói dối - Không nói lời phỉ báng - Không ác khẩu - Không nói lời thêu dệt, vô nghĩa - Không tham lam - Không sân hại - Chánh kiến |
Hơn nữa, Đức Phật còn nhấn mạnh: nếu Tỳ kheo nào có thể đoạn trừ được ái (taṇha) thì vị đó chính là một bậc A la hán đã dứt hết các lậu hoặc, phạm hạnh đã thành, những điều cần làm đã làm xong, bỏ gánh nặng xuống, đạt được nghĩa chân thực, đoạn trừ được các kết sử, lấy cứu cánh trí để chứng đắc giải thoát.
Ở phần này, Đức Phật lấy một ví dụ để giải thích về đoạn diệt ái. Đoạn diệt ái bắt đầu từ “căn” (gốc rễ) để trừ bỏ sự lưu chuyển, không còn bị cuốn vào sinh tử luân hồi ở đời sau; cũng giống như khi chặt cây cọ, phải cắt tận gốc rễ thì cây cọ mới không mọc lại nữa.
Để xác nhận liệu người tu hành theo sự truyền dạy đó có thực sự chứng ngộ hay không, Vacchagotta lại hỏi Đức Phật rằng: trong số đệ tử của Ngài có ai chứng đắc lậu tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát không? Các đệ tử ở đây bao gồm Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, bạch y cư sĩ Ưu bà tắc (upāsaka) và bạch y cư sĩ Ưu bà di (upāsika).
Ưu bà tắc và Ưu bà di lại chia làm 2 loại:
(i) Loại tu phạm hạnh (brahmacāri), thành tựu cao nhất chỉ có thể đoạn trừ năm hạ phần kết sử1;
1 Kết sử là phiền não. Hạ phần là phần dưới, cấp dưới. Năm hạ phần kết sử: thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham và sân. (Dịch giả chú thích)
(ii) Loại vẫn còn hưởng thụ năm loại dục lạc (kāma-bhogi) nhưng có tiềm tin tuyệt đối vào Tam bảo.
Trong bốn chúng này, chỉ có các Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni có chứng đắc lậu tận, chứng đắc vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Nghe xong, Vacchagotta xin quy y và xuất gia theo Đức Phật.
Không lâu sau, ông lại thỉnh Đức Phật giảng pháp và báo cáo với Đức Phật các thành tựu tu tập mà mình đạt được như các bậc hữu học tri (sekhā ñāṇa), hữu học minh (sekhā vijja), nhân đó thỉnh cầu Đức Phật giảng pháp cao hơn. Hữu học tri và hữu học minh được đề cập đến ở đây cũng giống như Kinh Hữu Học2 đã nêu trên, kết quả nó mang lại là chứng đắc tứ thiền, tam minh và giải thoát tri kiến.
2 Sekha Sutta, M.I.354~357
Khi Vacchagotta đã đầy đủ hữu học tri và hữu học minh, lần này Đức Phật liền chỉ định cho ông ta tiến tới tu chỉ (samatha) và quán (vipassana). Tu chỉ và quán có thể dẫn đến triệt quán (paṭivedha) và các loại giới (aneka-dhātu).
• Có thể có các loại siêu năng lực (iddhi-vidha, cựu dịch là thần túc thông), một thân biến hóa thành nhiều thân, nhiều thân biến hóa thành một thân; đi xuyên núi, đi xuyên tường như đi trong hư không; độn thổ, xuất đất như nhảy vào nước, ra khỏi nước; đi trên mặt nước như đi trên mặt đất, chân kiết già bay trên hư không như con chim; nắm mặt trăng, chạm mặt trời, sức lực như Phạm Thiên.
• Có thiên nhĩ thuần tịnh, siêu nhân, nghe được tất cả các âm thanh trên trời, dưới nhân gian, xa, gần.
• Có thể biết tâm người khác là tham hay không tham, sân hay không sân... tâm giải thoát hay không phải tâm giải thoát.
• Có thể biết các việc của bản thân từ nhiều kiếp trong quá khứ.
• Có thiên nhãn thanh tịnh, siêu việt, biết được việc sống chết của chúng sinh.
• Có thể đoạn trừ hết các lậu hoặc.
Đức Phật khai thị cho Vacchagotta rằng tu đắc chỉ và quán có thể khởi phát càng nhiều năng lực siêu việt hơn người bình thường, không chỉ giới hạn trong tứ thiền, tam minh mà còn hiểu được cả năm loại thần thông của ngoại đạo1. Dù là như vậy, Đức Phật vẫn không hề nhắc đến tứ vô sắc định và tưởng thọ diệt định.
1 Năm loại thần thông: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, thần túc thông, tha tâm thông, túc mạng thông. (Dịch giả chú thích)
Sau đó, khi có nhóm Tỳ kheo đến yết kiến và gửi lời thăm hỏi của Vacchagotta đến Thế Tôn, Ngài chứng thực Vacchagotta đã chứng đắc tam minh và có đầy đủ đại thần túc lực (mahiddhika), đại uy lực (mahānubhāva).
Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli, Kinh Mahā-vacchagotta, M.I.489~497, Majjhima Nikāya no.73 Mahā-vacchagotta Sutta.
2. Bản Hán dịch, Kinh Tạp A Hàm, Kinh 964, T02.246b~247c; Biệt Dịch Tạp A Hàm, Kinh 198, T02.446a~447b.
3. Bản dịch tiếng Anh, The Greater Discourse to Vacchagotta, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 595~602, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.
Lời kết
Đối tượng thuyết pháp của nhóm kinh điển này là những ẩn sĩ, Bà la môn tuy chưa quy y nhưng có thiện ý, có lòng tin, thậm chí còn rất kính ngưỡng Đức Phật. Trong tình huống này, Đức Phật trực tiếp truyền dạy cho họ đạo giải thoát. Chúng ta có thể kết luận rằng, Đức Phật thuyết giảng về đạo giải thoát lúc này là đạo giải thoát thuần túy của Phật giáo. Thiền định ở đây cũng chỉ giới hạn ở tứ thiền, không bao gồm vô sắc định và tưởng thọ diệt định.
Trong đó, có hai kinh đề cập đến sáu tri thức trực tiếp (quen gọi là thần thông) là Đại Kinh Sakuludāyi và Kinh Mahā-vacchagotta. Kinh trước nói về sáu tri thức trực tiếp trên phương diện các loại thiền định Đức Phật truyền dạy, kinh sau đề cập đến sáu tri thức trực tiếp trên phương diện các tri thức có thể đạt được khi bồi dưỡng chỉ và quán.
Tuy trong kinh này đề cập đến sáu tri thức trực tiếp nhưng không phải loại tri thức trực tiếp nào cũng mang tính quyết định đối với giải thoát rốt ráo. Trong sáu mục này thì lậu tận tri mang tính quyết định. Khi Đức Phật nói về giải thoát thường đề cập đến túc mệnh tri và hữu tình sinh tử tri, còn lại thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông thì không nhất thiết phải tu tập theo.