Thiền định thâm sâu nhất có thể khiến bạn vui vẻ, tĩnh lặng triệt để
Tứ thiền → không phải là đoạn giảm ác hành mà là lạc trú
Tứ xứ → không phải là đoạn giảm ác hành mà là tịch tĩnh trú
Như trên đã đề cập, Đức Phật phủ nhận nhận thức của đạo khác về tứ thiền và tứ xứ. Kinh Chu Na Vấn Kiến (Sallekha Sutta), Kinh Chân Nhân (Sappurisa Sutta), Kinh Thiện Tinh (Sunakkhatta Sutta) dưới đây ghi chép về tri thức của Đức Phật đối với tứ thiền và tứ xứ, chỉ ra quan niệm sai lầm trong việc tu thiền, chỉ trích thái độ tự khoe khoang khi thành tựu thiền định của đệ tử Phật.
Theo Kinh Chu Na Vấn Kiến, Đức Phật nói tứ thiền là hiện pháp lạc trú (diṭṭha-dhamma-sukha-vihārā), tứ xứ là tịch tĩnh trú (santā vihārā). Có một lần, Tỳ kheo Mahā Cunda thỉnh giáo Đức Phật rằng, khi một vị Tỳ kheo chứng nhập thiền định thì liệu vị đó có xả ly (pahāna) và đoạn trừ (paṭinissagga) hai loại hiểu biết: một là tri thức về ngã (atta-vāda-paṭisaṁyuttā) hoặc gọi tắt là ngã kiến; hai là các tri thức về thế gian (loka-vāda- paṭisaṁyuttā) hoặc gọi tắt là thế gian kiến chăng?
Đức Phật trả lời rằng hai loại tri thức này đều dùng chánh tuệ (samma-paññā) quán sát như thực mới có thể đoạn trừ, cũng có nghĩa là quán sát như vậy đối với sự sinh khởi (uppajjanti), tiềm tàng (anusenti), hiện hành (samudācaranti) của những tri thức đó: cái này không phải là của ta, ta không phải là cái này, cái này không phải là ta1. Quán như thực như vậy, Tỳ kheo sẽ xả ly và đoạn trừ ngã kiến và thế gian kiến.
1 N ’etaṁ mama, n ’eso ’ham- asmi, na m’eso attā.
Thời Đức Phật, các nhóm, các phái có những ý kiến, quan điểm khác nhau về ngã kiến và thế gian kiến, cơ sở căn cứ của họ cũng khác nhau. Có nhóm dựa trên cơ sở suy luận, có nhóm dựa vào sự tưởng tượng, có nhóm y cứ trên thành tựu thiền định. Vì vậy, quan điểm của họ khá đối lập nhau và tranh cãi không ngừng. Đức Phật dạy các đệ tử phải quan sát như thực sự sinh khởi, tiềm tàng và hiện hành của những hiểu biết này.



Trong kinh này, Đức Phật đặc biệt chỉ ra các kiến giải sai lầm do thành tựu thiền định đem lại. Có đệ tử ngộ nhận rằng khi chứng nhập thiền định tầng bậc cao thì có thể đoạn giảm các ác hành của thân, khẩu và ý. Đức Phật phân tích: Các Tỳ kheo chứng nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền ngộ nhận rằng chứng nhập thiền thì có thể “đoạn giảm” (sallekha). Đức Phật khẳng định: tứ thiền chỉ là bốn loại hiện pháp lạc trú mà thôi. Về mặt trình độ, bốn loại hiện pháp lạc trú này, cái sau cao hơn cái trước nhưng đều cùng một tính chất, chính là lạc thọ.
Ngoài ra, có các Tỳ kheo chứng nhập không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng ngộ nhận rằng đây là cách tu tập “đoạn giảm”. Đức Phật dạy rằng: bốn xứ này cũng chỉ là tịch tĩnh trú mà thôi. Bốn xứ là bốn loại tịch tĩnh khác nhau về trình độ, cái sau cao hơn cái trước, nhưng cũng có cùng một tính chất, đó là tịch tĩnh thọ.
Trong Kinh Chư Thọ (Kinh Nhiều Cảm Thọ, Bahu-vedanīya Sutta, Kinh 485 Tạp A Hàm), Đức Phật nói rằng: lạc thọ của sơ thiền cao thượng hơn (abhikanta-tara), trác việt hơn (paṇīta-tara) lạc thọ của ngũ dục; lạc thọ của nhị thiền cao thượng hơn, trác việt hơn lạc thọ của sơ thiền; và cũng như vậy với tam thiền, tứ thiền, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, tưởng thọ diệt định, cái sau lại cao thượng và trác việt hơn cái trước. Nói cách khác, bốn loại thiền và bốn loại xứ không phải là đoạn giảm mà chỉ là hỗ trợ cho đoạn giảm.
Trong Kinh Chân Nhân, Kinh Tự Thuyết có ghi chép: Đức Phật chỉ ra những đệ tử nào là bậc đại trượng phu thực sự (sappurisa) và những đệ tử nào không phải là bậc đại trượng phu thực sự. Có những Tỳ kheo chứng đắc sơ thiền đã tự tán dương mình và coi thường những Tỳ kheo chưa chứng đắc sơ thiền. Đức Phật nói những Tỳ kheo này không phải là bậc đại trượng phu thực sự.
Đại trượng phu là người thành tựu thật sự. Các Tỳ kheo này dùng thành tựu thiền định để khen mình chê người thì không thể trở thành những người có thành tựu thật sự, sẽ không đạt được những thành tựu lớn, vì họ không hiểu phương pháp tu thiền của Đức Phật. Còn các Tỳ kheo chứng đắc sơ thiền nhưng không vì thế mà tự khen mình chê người, họ mới là những bậc đại trượng phu thực sự. Vì họ ghi nhớ kỹ và hiểu rõ lời giáo huấn của Đức Phật về việc tu chứng các loại thiền định, cũng có nghĩa là “chớ có đồng nhất” (atammayata).
Đức Phật dạy rằng: những Tỳ kheo chứng đắc thiền định chớ có đồng nhất mình với cảnh giới thiền định. Khi Tỳ kheo chứng đắc thiền định và không đồng nhất mình với cảnh giới thiền định thì vị đó không tự tán dương vì mình có thể chứng đắc thiền định mà coi thường các Tỳ kheo khác chưa chứng đắc thiền định. Tỳ kheo này mới là bậc đại trượng phu thực sự, có thể trở thành bậc đại trượng phu thành tựu Vô thượng Chánh đẳng bồ đề trong tương lai. Dù là chứng đắc sơ thiền, nhị thiền, tam thiền... cho đến vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, các Tỳ kheo cũng không thể đồng nhất mình và cảnh giới thiền định này. Thái độ của Đức Phật về cảnh giới thiền định trái ngược với đạo khác. Các bậc đại trượng phu thực sự hãy ghi nhớ lời Đức Phật dạy: “chớ có đồng nhất”, Thế Tôn đã tuyên thuyết như vậy. Dù họ tưởng tượng (vọng tưởng) như thế nào về cảnh giới thiền định thì sự thực cũng không như những gì họ tưởng tượng.
Như các kinh điển đã thảo luận ở trên, Kinh Phạm Võng và Kinh Năm Ba, đạo khác coi cảnh giới thiền định là Niết bàn hoặc ngã tồn tại vĩnh hằng. Có nhóm coi bốn loại thiền định là Niết bàn, có nhóm coi bốn loại xứ là Niết bàn, có nhóm lại cho rằng chứng đắc bốn loại xứ, sau khi mệnh chung thì vĩnh viễn bị đoạn diệt, không còn có kiếp sau nữa.
Những kiến giải sai lầm này đều bắt nguồn từ việc người tu thiền đồng nhất mình với cảnh giới thiền định, coi mình và cảnh giới thiền định là một (đạo khác mượn sức mạnh hoặc thành tựu thiền định để quán tiểu ngã hợp nhất với các yếu tố như địa - đất, thủy - nước, hỏa - lửa, phong - gió, không - không khí), nghĩa là đạt đến sự hợp nhất của tiểu ngã và đại ngã (Phạm Thiên), cũng tức là giải thoát.

Trong Kinh Thiện Tinh (Kinh Trả Lời Sunakkhatta, Sunakkhatta Sutta), Đức Phật càng chỉ trích những đệ tử ngộ nhận rằng chứng nhập thiền định là chứng nhập Niết bàn. Từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền… đến phi tưởng phi phi tưởng xứ đều không tách rời lạc thọ và tịch tĩnh thọ. Thọ được sinh ra khi căn tiếp xúc với cảnh.
Những đệ tử ngộ nhận cảnh giới thiền định là Niết bàn lại cho rằng bản thân đã chứng nhập Niết bàn. Sự thực thì họ chưa hề chứng nhập Niết bàn. Trong các tầng bậc thành tựu thiền định, hành giả đều xả bỏ cảnh giới thấp hơn, rồi lại bị buộc vào cảnh giới vi tế cao hơn. Vậy thì, những vị đã chứng nhập Niết bàn sao có thể còn chấp trước vào sáu căn duyên cảnh của ba cõi nữa. Thế Tôn phân tích rằng:
Những ai còn vui với vật chất (ngũ dục lạc) thì sẽ không vui vì được nghe những điều về định bất động (thiền thứ tư đến thức vô biên xứ); cũng giống như một kẻ xa quê, vui khi được nghe những tin tức về quê nhà, không vui khi nghe những việc không liên quan đến quê nhà.
Những vị vui với định bất động thì không còn vui với vật chất (ngũ dục lạc); cũng giống như lá vàng đã rụng thì không thể xanh trở lại.
Những vị vui với vô sở hữu xứ thì không vui vì được nghe về định bất động; cũng giống như hòn đá to bị phá thành hai phần thì không thể hợp lại làm một như cũ.
Những vị vui với phi tưởng phi phi tưởng xứ sẽ không vui vì được nghe về vô sở hữu xứ; giống như người đã ăn no, bỏ những đồ ăn còn thừa, vị đó sẽ không ăn lại đồ ăn thừa đó nữa.
Những vị vui với Niết bàn thì sẽ không theo đuổi những gì không thích hợp với Niết bàn; cũng giống như cây chuối bị nhổ bật gốc thì không thể hồi sinh.
Vì vậy, Thế Tôn nói rằng một người truy cầu Niết bàn sẽ không để tâm mình hướng đến các cảnh giới như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; và cũng không chiều theo sáu căn như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý để chạy theo sáu cảnh như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Lạc thọ và tịch tĩnh thọ do cảnh giới thiền định mang lại vẫn thuộc phạm trù của căn đối cảnh, nghĩa là thân chịu xúc chạm, ý đối với cảnh giới (pháp). Nếu chấp vào cảnh giới thiền định thì nghĩa là sáu căn vẫn đang đuổi theo sáu cảnh.
Chấp trước là nguồn gốc của khổ đau. Đoạn trừ chấp trước phải bắt đầu từ sáu xúc. Căn đối cảnh sinh ra xúc, vì vậy nếu xúc xứ không tạo ra chấp trước, khổ đau cũng sẽ không sinh khởi. Một người có khả năng thoát khỏi chấp trước thì sẽ không để cho thân tâm mình chạy theo bất kỳ cảnh giới nào. Một người tu thiền mà chấp thủ vào cảnh giới thiền định, cho rằng cảnh giới này là thực có, là tồn tại vĩnh hằng thì đó chính là chấp trước. Khi cảnh giới thiền định biến mất, khổ đau cũng theo đó mà sinh ra. Đức Phật chỉ dạy cho Thiện Tinh rằng:
“Này Thiện Tinh, sau khi Tỳ kheo hiểu được chấp trước là nguồn gốc của khổ đau, vị đó sẽ tu tập để tiết chế sáu xúc xứ, không còn chấp trước. Giải thoát khỏi chấp trước, vị đó sẽ không khiến cho thân hoặc tâm mình hướng đến bất kỳ chấp trước nào”1.
1 So vata, Sunakkhatta, bhikkhu chasu phassayata- nesu saṁvutakārī: Upadhi duk- khassa mūlan ti iti viditvā nirupadhi upadhisaṁkhaye vimutto, upadhismiṁ vā kāyaṁ upasaṁharissati cittaṁ vā uppādessatîti, n’etaṁ ṭhānaṁ vijjati. (M.II.260).
Tóm lại, cảnh giới thiền định không phải là Niết bàn. Những người còn chấp trước cảnh giới thiền định là Niết bàn, trên thực tế họ chưa chứng đắc Niết bàn.

Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli, Kinh Đoạn Giảm, M.I.40~46, Majjhima Nikāya no.08 Sallekha Sutta.
1.1. Hán dịch, Kinh Trung A Hàm, Kinh Chu Na Vấn Kiến, T1.573b~574b.
1.2. Bản dịch tiếng Anh, Effacement, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 123~131, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.
2. Trung Nikāya Pāli, Kinh Chân Nhân, M.III.37~45, Majjhima Nikāya no.113 Sappurisa Sutta.
2.1. Hán dịch, Kinh Trung A Hàm, Kinh Chân Nhân, T1.561a~562a.
2.2. Hán dịch, An Thế Cao dịch, Kinh Phật Thuyết Thị Pháp Phi Pháp, T1.837c~838c.
2.3. Bản dịch tiếng Anh, The True Man, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 909~912, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.
3. Trung Nikāya Pāli, Kinh Thiện Tinh, M.II.252~261, Majjhima Nikāya no.105 Sunakkhatta Sutta.
3.1. Kinh này không có bản Hán dịch.
3.2. Bản dịch tiếng Anh, To Sunakkhatta, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 861~868, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.