Đừng cho rằng thiền định có thể hủy diệt hay sáng tạo “ngã”
Đạo khác: Tứ xứ → Sau khi chết, “ngã” tồn tại vĩnh hằng hoặc bị đoạn diệt vĩnh viễn.
Trong Kinh Năm Ba - (Pañcattaya Sutta), việc đạo khác suy luận và phỏng đoán về tương lai có thể chia làm năm loại. Năm loại này lại có thể quy về ba loại. Vì vậy, kinh này có tên là Kinh Năm Ba. Đây là kinh Đức Phật tự thuyết, có hai trọng điểm có thể so sánh, thảo luận với Kinh Phạm Võng.
(1) Điểm thứ nhất: bàn luận từ khía cạnh “ngã”:
Kinh Phạm Võng ghi chép: Có đạo khác cho rằng chứng nhập tứ xứ, sau khi mệnh chung, ngã sẽ vĩnh viễn biến mất, đoạn diệt.
Nhưng trong Kinh Năm Ba lại ghi chép: Có đạo khác cho rằng chứng nhập tứ xứ, sau khi mệnh chung, ngã sẽ không có bệnh tật gì (aroga) hoặc khỏe mạnh, vĩnh viễn tồn tại, vĩnh viễn không bị đoạn diệt1.
1 M.II.229~232; Bodhi:MLD.840~842.
(2) Điểm thứ hai: thảo luận từ khía cạnh Niết bàn:
Trong Kinh Phạm Võng ghi chép: Có đạo khác cho rằng chứng nhập tứ thiền, “ngã” trải nghiệm hiện pháp Niết bàn và cho rằng thiền (jhāna) tức là Niết bàn.
Kinh Năm Ba ghi chép: Có đạo khác cho rằng chứng nhập tứ xứ, ngã trải nghiệm hiện pháp Niết bàn và cho rằng xứ (āyatana) tức là Niết bàn2.
2 M.II.235~237; Bodhi:MLD.844~846.


Về điểm thứ nhất, theo Kinh Năm Ba, các nhóm đạo khác này lấy việc chứng đắc không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ để chủ trương sau khi mệnh chung, “ngã” không có bệnh tật gì, khỏe mạnh, vĩnh viễn tồn tại. Điểm chung của họ là đều cho rằng có một cái ngã không bệnh tật, tồn tại vĩnh hằng; nhưng bất đồng ý kiến về việc ngã này hữu tưởng hay vô tưởng.
Có nhóm đạo khác cho rằng “ngã” là hữu tưởng, có nhóm cho rằng “ngã” là vô tưởng, có nhóm cho rằng “ngã” vừa hữu tưởng vừa vô tưởng, có nhóm lại cho rằng “ngã” không phải hữu tưởng mà cũng không phải vô tưởng.
Ba xứ đầu trong bốn xứ (tứ xứ): không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ là định hữu tưởng (saññā samāpatti), vậy liệu phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng là hữu tưởng chăng? Sự giải thích của các phái về vấn đề này không giống nhau. Có nhóm ngoại đạo cho rằng định này là định hữu tưởng, có nhóm lại cho rằng định này là định vô tưởng.
Nói cách khác, các ngoại đạo này coi cảnh giới thiền định là “ngã” (attā). Khi vị này chứng nhập định hữu tưởng1 thì vị này cho rằng “ngã” là hữu tưởng (saññi attā). Khi vị này chứng nhập định vô tưởng thì vị này cho rằng “ngã” là vô tưởng (asaññi attā). Khi vị này chứng nhập định phi tưởng phi phi tưởng thì vị ấy cho rằng “ngã” vừa hữu tưởng vừa vô tưởng hoặc vị ấy cho rằng “ngã” chẳng phải hữu tưởng cũng chẳng phải vô tưởng. Các vị này sai lầm khi coi cảnh giới thiền định là “ngã”.
1 Nguyên văn là “Hữu tưởng đẳng chí”. Từ “Đẳng chí” tiếng Pali là samāpatti, nghĩa là định. Ở đây ta có thể hiểu là định hữu tưởng.
Đức Phật nói rằng các thiền định này đều hữu hành (saṁkhāra); mà hành (saṁkhāra) thì sẽ bị đoạn diệt (atthi kho pana saṁkhārānaṁ nirodho).1 Nếu nói thiền định là “ngã”, vậy thì thiền định hữu hành có sinh diệt, ngã cũng có sinh có diệt. Kết luận của các đạo khác: “Ngã” tồn tại vĩnh hằng là không chính xác.
1 M.II.230.




Về điểm thứ hai, căn cứ theo Kinh Năm Ba, có một phái thuộc đạo khác, siêu việt phi khổ phi lạc thọ (loại cảm thọ không khổ không lạc) cho rằng: “ngã đoạn diệt, ngã Niết bàn, ngã vô trước” (Santo ‘ham asmi, nibbuto ‘ham asmi, anupādāno ‘ham asmi). Họ cho rằng cảm thọ không khổ không lạc là một nhánh của thiền thứ tư, cũng tức là các vị chứng nhập thiền thứ tư ở vào cảnh giới cảm thọ không khổ không lạc.
Muốn tiến thêm một bước chứng nhập tứ xứ (vô sắc định) thì ắt phải hàng phục loại cảm thọ không khổ không lạc này. Cũng có nghĩa là vượt qua (samatikkamā) cảm thọ không khổ không lạc này thì mới có thể chứng nhập tứ xứ. Phái ngoại đạo này đã thành công siêu việt cảm thọ không khổ không lạc này, nhưng lại chấp trước kết luận là “ngã” (attā) chứng đắc Niết bàn. Đức Phật nói rằng họ vẫn còn “chấp trước” (upādiyamāna), chưa hề chứng nhập Niết bàn.
Tuy các đạo khác đều chứng nhập các thiền định vô cùng cao siêu một cách thành thục, lão luyện và cho đó là cái “ngã” tồn tại vĩnh hằng, nhưng trên thực tế, họ vẫn chưa hoàn thành mục đích tu tập phạm hạnh. Vì quan niệm về “ngã” đó chỉ là một loại “chấp trước”. Cái họ cho rằng là ngã, là Niết bàn đều không tách rời xúc được sinh ra khi sáu căn tiếp xúc với sáu cảnh, tức là lục xúc (sáu loại xúc chạm).
Đức Phật đã chứng ngộ những chấp trước và siêu việt những cảm giác vi tế này để đạt đến giải thoát. Ngài nói rằng: Như Lai đã giác ngộ (abhisambuddha) đạo vô thượng và vô cùng tịch tĩnh, nghĩa là giải thoát vô sở trước (anupādā vimokha), cũng tức là biết được như thực sự sinh khởi (samudaya), biến mất (atthaṅgama), sự thỏa thích (assāda), nguy hiểm (ādīnava) và trốn thoát (nissaraṇa) của sáu loại xúc chạm1. Thì ra giải thoát Niết bàn mà Đức Phật thuyết giảng có quan hệ mật thiết với sáu căn, sáu cảnh và sáu xúc. Tu thiền định cũng tức là đạt đến cảnh giới sáu căn không bị ảnh hưởng bởi sáu cảnh. Căn không bị ảnh hưởng bởi cảnh thì xúc không sinh, không có xúc thì không có thụ, không có thụ thì không có chấp ái, không có ái thì không có chấp thủ, không có thủ thì không tồn tại hữu, không có hữu thì không có sinh, lão tử. Như vậy, tất cả khổ đều được diệt tận. Đây chính là luân hồi và giải thoát được thể hiện trong mười hai nhân duyên. Kinh này đoạn trừ luân hồi bắt đầu từ xúc. Trong kinh Tương Ưng Nikāya, Thế Tôn dạy rằng sự hiểu biết về sáu loại xúc chạm là căn bản của phạm hạnh1.
1 Này các Tỳ kheo, Như Lai phát hiện ra nơi tĩnh lặng tối thắng, nghĩa là chứng đắc giải thoát vô sở trước, cũng tức là biết được như thực sự sinh khởi, biến mất, sự thỏa thích, nguy hiểm, trốn thoát của sáu loại xúc chạm (Idaṁ kho pana, bhikkhave, Tathāgat- ena anuttaraṁ santi-vara-padaṁ abhisambuddhaṁ yad-idaṁ channaṁ phassâyatanānaṁ samudayañ ca atthaṅgamañ ca assādañ ca ādīnavañ ca nissaraṇañ ca yathābhūtaṁ viditvā anupādā vimokho. (M.II.237)).
1 S.II.75.
Các đạo khác nói trên đều tự cho rằng mình đã chứng đắc Niết bàn, trên thực tế họ đã sai lầm khi coi cảnh giới thiền định là Niết bàn. Không chỉ có vậy, họ còn cho rằng có một cái ngã (attā) hoặc tồn tại vĩnh viễn hoặc bị đoạn diệt không còn tồn tại.



Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli, Kinh Năm Ba, M.II.228~238, Majjhima Nikāya no.102 Pañcattaya Sutta.
2. Kinh này không có bản Hán dịch.
3. Bản dịch tiếng Anh, The Five and Three, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 839~846, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.
Hiểu biết nhiều hơn
Đạo khác có năm quan điểm và lời bình luận của Đức Phật về các quan điểm này:


