• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Giải mã thiền định và giải thoát - Chìa khóa chứng ngộ của Đức Phật
  3. Trang 34

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 33
  • 34
  • 35
  • More pages
  • 66
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 33
  • 34
  • 35
  • More pages
  • 66
  • Sau

I. Chớ có ngộ nhận thiền định là điểm cuối cùng - Kinh Phạm Võng

Thiền định chỉ là con đường tỉnh giác

Các đạo khác: Tứ thiền → Niết bàn tối cao vô thượng, Tứ xứ → Sau khi chết, “ngã” vĩnh viễn đoạn diệt

Kinh Phạm Võng, tên đầy đủ tiếng Pāli là Brahmajāla Sutta, là kinh Đức Phật tự thuyết, ghi chép về việc thời Đức Phật có một đạo khác tuyên bố làm thế nào có thể khiến cho “ngã” (attā) chứng đắc Niết bàn tối cao vô thượng, tức là hiện pháp Niết bàn cực đỉnh (Parama-diṭṭha-dhamma-nibbāna). Căn cứ vào việc bản thân đã chứng nhập tứ thiền, họ cho rằng mình đã chứng đắc hiện pháp Niết bàn tối cao vô thượng.

Kinh Phạm Võng cũng ghi chép: các đạo khác khi chứng đắc tứ xứ (āyatana samāpatti) tuyên thuyết rằng, sau khi mệnh chung, “ngã” vĩnh viễn đoạn diệt, không còn tồn tại1.

1 Xem chi tiết tại D.I.34~38; M. Washe trang 84~87.

Vào thời Đức Phật, các đạo khác đều thông hiểu tám tầng bậc thiền định. Mỗi khi chứng đắc một loại định, họ đều đi đến một kết luận và tuyên thuyết loại hiểu biết này. Từ chủng loại thiền định, ta có thể quy nạp các kết luận này thành hai loại lớn sau:

(i) Hiện pháp Niết bàn tối cao vô thượng luận dựa trên cơ sở chứng nhập tứ thiền.

(ii) Đoạn diệt luận (uccheda-vāda) dựa trên cơ sở chứng nhập tứ xứ (āyatana).

a85

Liên quan đến hiện pháp Niết bàn tối cao vô thượng, có bốn quan điểm. Có hành giả đạo khác sau khi chứng nhập thiền thứ nhất thì đưa ra kết luận “ngã” (attā) chứng đắc hiện pháp Niết bàn tối cao vô thượng này.

Một nhóm hành giả đạo khác, sau khi chứng nhập thiền thứ hai thì phản bác kết luận của nhóm trên, phủ nhận thiền thứ nhất là hiện pháp Niết bàn tối cao vô thượng và cho rằng thiền thứ hai mới là “ngã” chứng đắc hiện pháp Niết bàn này.

Lại có một nhóm hành giả đạo khác, sau khi chứng nhập thiền thứ ba thì phản bác kết luận của cả hai nhóm trước, phủ nhận thiền thứ nhất và thiền thứ hai là hiện pháp Niết bàn tối cao vô thượng, cho rằng thiền thứ ba mới là “ngã” chứng đắc hiện pháp Niết bàn này.

Lại có một nhóm hành giả đạo khác nữa, sau khi chứng nhập thiền thứ tư thì phản đối kết luận của cả ba nhóm trước; không cho rằng thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba là hiện pháp Niết bàn tối cao vô thượng mà cho rằng thiền thứ tư mới là “ngã” chứng đắc hiện pháp Niết bàn này.

Bốn loại hành giả đạo khác này đều có cùng một quan điểm, cho rằng có một cái “ngã” (attā). Họ cũng nhất trí theo đuổi cùng một cảnh giới, đó chính là cảnh giới Niết bàn tối cao, vô thượng, thù thắng nhất, có thể chứng đắc ngay trong kiếp này, gọi là hiện pháp Niết bàn tối cao vô thượng. Thì ra, vào thời Đức Phật, các đạo khác cũng đã đề cập đến Niết bàn. Họ coi cảnh giới thiền định là Niết bàn. Có nhóm cho rằng thiền thứ nhất là Niết bàn, có nhóm lại coi thiền thứ hai là Niết Bàn, có nhóm lại kết luận rằng thiền thứ ba là Niết bàn, còn có nhóm lại đưa ra quan điểm thiền thứ tư là Niết bàn.

a86

Đức Phật không đồng ý với quan điểm của họ. Ngài cho rằng họ đã sai lầm khi coi thiền là Niết bàn và có một “ngã” vĩnh hằng để trải nghiệm sự an lạc của thiền. Đức Phật chỉ ra cho chúng ta thấy: họ cố chấp vào kết luận này, bị trói buộc vào loại hiểu biết này, sau này sẽ tạo ra một loại thế giới nào đó1. Nói cách khác, nếu chấp vào quan điểm này sẽ chỉ tạo ra một kiếp sống không xa rời khổ đau, càng không thể chấm dứt sự tiếp tục của khổ đau.

1 D.I.39.

Các đạo khác chứng đắc thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba hoặc thiền thứ tư, khi mệnh chung sẽ lần lượt được hóa sinh thành Phạm thiên (Brahma deva), Cực quang tịnh thiên hoặc gọi là Quang âm thiên (Ābhassara deva), Biến tịnh thiên (Subhakiṅha deva) và Quảng quả thiên (Vehapphala deva). Tại các thế giới đó, sau khi hưởng hết tuổi thọ của mình, họ sẽ đọa lạc vào cõi nhân gian hoặc các cõi thấp hơn như cõi súc sinh, cõi ngạ quỷ... chịu khổ, chịu nạn. Cuối cùng, họ cũng không thể xa rời được khổ đau để có được sự an lạc.

Quan điểm của đức Phật

a87

Về đoạn diệt luận cũng có bốn quan điểm. Bốn loại đoạn diệt luận này là căn cứ vào tứ vô sắc định để đưa ra kết luận.

Có một loại đoạn diệt luận là chứng đắc không vô biên xứ, sau đó đi đến kết luận rằng: đây là con đường đoạn diệt “ngã”. Loại hành giả đạo khác này cho rằng: những người tu thiền có thể chứng nhập không vô biên xứ, sau khi mệnh chung thì họ vĩnh viễn không còn tồn tại, mãi mãi bị đoạn diệt, cũng có nghĩa là “ngã” không còn tồn tại trên thế gian.

Một loại đoạn diệt luận khác phản đối chủ trương trên. Hành giả đạo khác là những người tu thiền có thể chứng đắc thức vô biên xứ. Họ cho rằng chứng nhập không vô biên xứ không thể khiến cho “ngã” vĩnh viễn đoạn diệt mà phải chứng đắc thức vô biên xứ mới có thể mãi mãi đoạn diệt sự tồn tại của “ngã”.

Có một loại đoạn diệt luận khác không đồng ý với kết luận trên. Hành giả đạo khác là những người tu thiền có thể chứng nhập vô sở hữu xứ. Họ cho rằng chứng nhập vô sở hữu xứ mới có thể khiến “ngã” vĩnh viễn đoạn diệt, không còn tồn tại.

Lại có một loại đoạn diệt luận khác lật đổ quan điểm trên. Hành giả đạo khác là những người tu thiền có thể chứng đắc phi tưởng phi phi tưởng xứ. Loại hành giả đạo khác này cho rằng chứng đắc phi tưởng phi phi tưởng xứ mới có thể thực sự đoạn diệt “ngã”, khiến cho nó vĩnh viễn không còn tồn tại.

Những người tu thiền đạo khác thuộc bốn loại trên đều thống nhất kết luận là: sau khi mệnh chung thì “ngã” sẽ biến mất vĩnh viễn, chỉ khác biệt về phương pháp. Chủ trương của họ đều căn cứ trên tầng bậc thiền mà họ chứng đắc được và từ đó đưa ra kết luận. Dù thế nào thì Đức Phật cũng không tán thành quan điểm của họ.

a88

Tứ xứ này chẳng qua là tầng bậc cao hơn tứ thiền và là cảnh giới thiền định vi diệu hơn. Như trên đã nói, Đức Phật giải thích rằng họ chấp vào kiến giải này, bị trói buộc vào loại kiến giải này sẽ tạo thành một loại thế giới nào đó. Cũng có thể nói là chấp vào các kiến giải này sẽ dẫn đến một kiếp sống không thể xa lìa khổ đau, không thể chấm dứt sự tiếp tục của khổ đau, càng không thể khiến cho “ngã” vĩnh viễn bị đoạn diệt, không còn sót lại, một khi dứt thì tất cả đều dứt sạch.

Các hành giả đạo khác đều dựa trên cơ sở thành tựu tứ thiền và tứ xứ mà tuyên bố “ngã” (attā) hoặc có thể trải nghiệm hiện pháp Niết bàn hoặc vĩnh viễn đoạn diệt. Đức Phật không tán đồng với quan điểm tứ thiền là Niết bàn, cũng không đồng ý với kết luận có một cái “ngã” vĩnh hằng có thể trải nghiệm hiện pháp Niết bàn tối cao vô thượng.

Mặt khác, Đức Phật cũng phủ nhận quan niệm cho rằng phương pháp thiền định có thể khiến “ngã” vĩnh viễn biến mất, đoạn diệt. Dù cho rằng cảnh giới thiền định đồng đẳng với cảnh giới Niết bàn, từ đó kết luận có một cái “ngã” tồn tại vĩnh hằng, bất diệt; cái “ngã” này có thể trải nghiệm Niết bàn, hoặc cho rằng cảnh giới thiền là phương tiện để diệt ngã, từ đó đi đến quan điểm có cái ngã có thể đoạn, có thể diệt. Đức Phật đều không nhất trí và chỉ trích hai quan điểm này.

a89

Đọc nhiều hơn

1. Trường Nikāya Pāli, Kinh Phạm Võng, D.I.01~46, Dīgha Nikāya no.1 Brahmajāla Sutta.

2. Bản Hán dịch, Kinh Trường A Hàm, Kinh Phạm Động, T1. 88b~94a.

3. Bản Hán dịch, Kinh Phật Thuyết Phạm Võng Lục Thập Nhị Kiến, T1.264a~270c.

4. Bản dịch tiếng Anh, The Supreme Net, The Long Discourses of the Buddha, trang 1~90, Maurice Walshe dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.

a90