• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Giải mã thiền định và giải thoát - Chìa khóa chứng ngộ của Đức Phật
  3. Trang 33

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 32
  • 33
  • 34
  • More pages
  • 66
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 32
  • 33
  • 34
  • More pages
  • 66
  • Sau

Chương 5Đức Phật không chấp nhận Thiền của đạo khác

a83

Giới thiệu

Tri (ñāṇa), giải thoát tri kiến (vimutti-ñāṇa-dassana) và sáu tri thức trực tiếp (chaḷ-abhiññā) có liên quan đến trí và quán của giải thoát rốt ráo. Các thành tựu này đều đã được nhắc đến ở các kinh điển trước. Nhưng các kinh điển này chỉ nói đến tứ thiền, không nhắc đến tứ vô sắc định và tưởng thọ diệt định. Vì vậy, về hình thức, các thành tựu này thể hiện rõ vai trò quan trọng của tứ thiền trên con đường giải thoát. Nếu xem xét ở bề sâu, các thành tựu này đều được tạo nên bởi năng lượng của tứ thiền.

Dưới đây, chúng ta sẽ thảo luận việc Đức Phật nhìn nhận thế nào về tám tầng bậc định, đặc biệt là tứ xứ (hoặc còn gọi là tứ vô sắc định). Ở đây, chúng ta sẽ đưa tên gọi tứ vô sắc định trở về với cách gọi ban đầu của nó, tức là tứ xứ. Xứ là ý dịch của āyatana trong tiếng Pāli. Trong kinh điển Hán dịch, tứ vô sắc định tức là không vô biên xứ (ākāsānañca-ayatana), thức vô biên xứ (viññāṇañca-ayatana), vô sở hữu xứ (ākiñcaññā-ayatana), phi tưởng phi phi tưởng xứ (nevasaññānâsaññā-ayatana).

Các luận thư đời sau đều gọi là tứ vô sắc định. Vậy thì, tứ vô sắc định rốt cuộc là có sắc hay vô sắc? Đây là một đề tài thu hút rất nhiều sự tranh luận, cho đến nay vẫn chưa có một kết luận chính xác. Chúng ta hãy tránh rơi vào các loại tranh luận này của Phật giáo hậu kỳ mà chỉ nên tập trung vào mối quan hệ giữa thiền định và đạo giải thoát. Vì vậy, cũng giống như bốn loại thiền được gọi chung là tứ thiền, trong sách này tứ xứ chỉ cho bốn loại thiền định vô sắc giới.

Trong Trung Nikāya, có đến mười mấy kinh đề cập đến tám tầng bậc định hoặc chín tầng bậc định. Nội dung thiền định của các kinh điển này có thể chia thành sáu chủ đề để thảo luận:

(i) Liệu Đức Phật có chấp nhận nhận thức của các đạo khác đối với tám tầng bậc định?

(ii) Nhân duyên giữa chín tầng bậc định, Niết bàn và bất động tâm giải thoát.

(iii) Sự vận hành của hiện quán trong chín tầng bậc định.

(iv) Mối quan hệ giữa hiện pháp Niết bàn và tứ thiền.

(v) Mối quan hệ giữa hiện pháp Niết bàn và vô sở hữu xứ.

(vi) Các loại tưởng và đỉnh tưởng. Trong đó, tưởng tiếng Pāli là saññā. Vì nó có quan hệ không thể tách rời với hiện pháp chứng ngộ Niết bàn nên được đặt riêng một chương để thảo luận.

Về việc Đức Phật phủ nhận sự hiểu biết và vận dụng của các đạo khác về tứ thiền và tứ xứ, chúng ta có thể tham khảo Kinh Phạm Võng1 trong Trường Nikāya. Liên quan đến việc Đức Phật phủ nhận nhận thức và vận dụng của các đạo khác về tứ xứ, chúng ta có thể tham khảo Kinh Năm Ba2 trong Trung Nikāya. Liên quan đến tri thức của Đức Phật về tứ thiền và tứ xứ, chúng ta có thể tham khảo Kinh Đoạn Giảm3, Kinh Chân Nhân4 và Kinh Thiện Tinh5.

1 Brahmajāla Sutta, DN 1.

2 Pañcattaya Sutta, MN 102.

3 Sallekha Sutta, MN 8.

4 Sappurisa Sutta, MN 113.

5 Sunakkhatta Sutta, MN 105.

a84