• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Giải mã thiền định và giải thoát - Chìa khóa chứng ngộ của Đức Phật
  3. Trang 32

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 31
  • 32
  • 33
  • More pages
  • 66
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 31
  • 32
  • 33
  • More pages
  • 66
  • Sau

IV. Con đường dẫn đến Vô thượng du già vững chắc - Kinh Sacca-vibhaṅga

Thiền định rốt ráo an lạc

Bát chánh đạo là đạo đế trong Tứ đế, chánh định là chỉ tứ thiền

Kinh này tên đầy đủ tiếng Pāli là Sacca-vibhaṅga Sutta. Kinh có ba bản Hán dịch là: Kinh Phật Thuyết Tứ Đế do An Thế Cao dịch, Kinh Phân Biệt Thánh Đế trong Trung A Hàm và Kinh Nhất thuộc Phẩm Đẳng Thú Tứ Đế trong Tăng Nhất A Hàm. Kinh phân tích về Tứ đế trong đó nói rõ, Bát chánh đạo là đạo đế, trong bản Pāli thì nói thêm tứ thiền là chánh định (sammā samādhi).

Đức Phật tự thuyết cho các Tỳ kheo đặc điểm của Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục Kiền Liên. Họ đều là các bậc thiện tri thức trên con đường tu đạo. Bản kinh Pāli ghi chép Thế Tôn tán thán Tôn giả Xá Lợi Phất như một người mẹ. Khi huấn luyện, dạy dỗ các Tỳ kheo, Tôn giả có thể khiến cho họ chứng nhập quả Dự lưu (sotāpatti-phala). Tôn giả Mục Kiền Liên thì như một người bảo hộ, có thể dạy cho các Tỳ kheo chứng đắc nghĩa tối thượng (uttamattha). Bản dịch của An Thế Cao chép rằng Tôn giả Xá Lợi Phất khiến người nghe pháp có thể tin theo đạo, giống như sinh mẫu (người mẹ có công sinh thành); còn Tôn giả Mục Kiền Liên có thể khiến cho chúng sinh hết lòng tu đạo, giống như dưỡng mẫu (người mẹ có công nuôi dưỡng).

Kinh Trung A Hàm ghi chép: Tôn giả Xá Lợi Phất có thể dùng chánh kiến để dẫn dắt, khiến cho sinh khởi các phạm hạnh giống như sinh mẫu; Tôn giả Mục Kiền Liên có thể dẫn dắt đến mục đích cứu cánh1, gọi là lậu tận rốt ráo, trưởng dưỡng các phạm hạnh giống như dưỡng mẫu.

1 Hán: 最上真際 (Tối thượng chân tế). Pāli: sāriputto sotāpattiphale vineti, moggallāno uttamatthe, “Xá Lợi Phất điều phục người nơi quả Dự lưu; Mục Kiền Liên dẫn đến mục đích cứu cánh.

Kinh Tăng Nhất A Hàm ghi chép hai vị Tôn giả như cha mẹ, Tôn giả Xá Lợi Phất thuyết pháp thành tựu Tứ đế cho người khác; Tôn giả Mục Kiền Liên thuyết pháp thành tựu đệ nhất nghĩa đế, vô lậu hạnh. Hơn nữa, Tôn giả Xá Lợi Phất rất khéo phân tích Tứ thánh đế. Sau khi thuyết giảng xong, Tôn giả liền rời đi tĩnh tọa.

Tôn giả Xá Lợi Phất tiếp tục giải thích về Tứ thánh đế (cattuna ariya-saccā) cho các Tỳ kheo. Trong khổ, tập, diệt, đạo của Tứ thánh đế, con đường diệt khổ là Bát chánh đạo.

(i) Chánh kiến: biết khổ (Ngũ thủ uẩn), nguồn gốc của khổ (do tham ái/taṇhā → có kiếp sau/pono-bhavika), diệt khổ (diệt tham ái), con đường diệt khổ (Bát chánh đạo);

(ii) Chánh tư duy: tư duy về ly dục (nekkhamma), về vô sân (abyāpāda), về bất hại (avihiṃsa);

(iii) Chánh ngữ: không nói dối (vô vọng ngữ/musāvāda), không ác khẩu, (vô ác ngữ/pisuṇā), không nói lời thô thiển (vô thô ngữ/pharusa), không nói chuyện phù phiếm, không nói lời thêu dệt (vô nghĩa/samphappalāpa);

(iv) Chánh nghiệp: không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục;

(v) Chánh mạng: xả bỏ tà mạng, sống bằng chánh mạng;

(vi) Chánh tinh tấn: những ác đã khởi lên thì khiến cho chúng bị đoạn diệt, những ác chưa sinh khởi thì khiến cho chúng không sinh khởi, những thiện chưa sinh khởi thì khiến cho chúng sinh khởi, những thiện đã sinh khởi thì khiến cho chúng tăng trưởng;

(vii) Chánh niệm: quán thân trên thân, quán cảm thọ trên cảm thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên pháp;

(viii) Chánh định (sammā samādhi): sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền.

Trong bốn bài kinh nêu trên, tứ thiền là trợ duyên của giải thoát, là con đường dẫn đến Vô thượng du già vững chắc cho bậc hữu học và cũng là nơi các bậc Thánh đã giải thoát thường an trú, là hiện pháp Niết bàn lạc trú trong hiện tại của bậc vô học.

Đọc nhiều hơn

1. Trung Nikāya Pāli, Kinh Saccavibhaṅga, M.III.248~252, Majjhima Nikāya no.141 Saccavibhaṅga Sutta.

2. Bản Hán dịch, Kinh Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Thánh Đế, T1. 467b~469c.

3. Bản Hán dịch, Kinh Tăng Nhất A Hàm, phẩm Đẳng Thú Tứ Đế, T2.643a~643b.

4. An Thế Cao dịch, Kinh Phật Thuyết Tứ Đế, T1.814b~816c.

5. Bản dịch tiếng Anh, The Exposition of the Truth, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 1097~1101, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.