• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Giải mã thiền định và giải thoát - Chìa khóa chứng ngộ của Đức Phật
  3. Trang 41

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 40
  • 41
  • 42
  • More pages
  • 66
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 40
  • 41
  • 42
  • More pages
  • 66
  • Sau

IV. Bậc Thánh vận hành như thế nào trong thiền định? - Kinh Bất Đoạn

Học tập phương pháp của bậc Thánh, an trú trong chín loại an lạc

Tôn giả Xá Lợi Phất quán chiếu thấy các pháp trong thiền định

→ Ngài không chào đón, không cự tuyệt... tâm không có chướng ngại đối với các pháp ấy

Kinh Bất Đoạn là một ví dụ về phương pháp tu thiền Thế Tôn truyền dạy. Kinh này ghi chép việc Tôn giả Xá Lợi Phất có thể quán chiếu sự sinh khởi và đoạn diệt của từng pháp trong mỗi cảnh giới thiền định. Vì quán chiếu như vậy, Tôn giả biết rằng có thể vượt qua các pháp này để đạt được thành tựu cao hơn.

Tôn giả Xá Lợi Phất lìa dục và các pháp bất thiện, chứng nhập thiền thứ nhất, có tầm, có tứ, có hỷ lạc do ly dục sinh. Ngài hiểu rõ các cảnh giới thiền định. Mỗi pháp sinh khởi trong thiền thứ nhất, Tôn giả Xá Lợi Phất đều có thể phân biệt, biết rõ từng pháp một (anupada-vavatthita). Các pháp sinh khởi trong thiền thứ nhất gồm có: tầm (vitakka), tứ (vicāra), hỷ (pīti), lạc (sukha), nhất tâm (cittekaggata), xúc (phassa), thọ (vedanā), cảm tri (saññā, cựu dịch là tưởng), tư (cetanā), tâm (citta), nhiệt tình (chando), quyết tâm (adhimokkha), tinh tấn (viriya), niệm (sati), xả (upekhā), tác ý (manasikāra).

a123

Tôn giả Xá Lợi Phất biết các pháp này sinh khởi (uppajjanti), biết chúng an trú (upaṭṭhahanti), biết chúng đoạn diệt (gacchanti). Ngài biết: “Các pháp này chưa hiện hữu, đang sinh khởi, đã sinh khởi, biến mất”.

a124

Tôn giả không những có thể phân biệt rõ từng pháp mà còn có thể quán chiếu rõ ràng sự sinh khởi, an trú và đoạn diệt của mỗi pháp. Ngài không vì đạt được thành tựu thiền định mà thiết lập bất kỳ hiểu biết (diṭṭhi) nào, càng không đồng nhất mình với cảnh giới thiền định. Ngược lại, Ngài không chào đón (anupāya), cũng không cự tuyệt (anapāya), không dựa dẫm (anissita), không bị trói buộc (apaṭibaddha), phóng thích (vippamutta), xa rời (visaṁyutta), tâm không có chướng ngại (vimariyādika-tena cetasa) đối với các pháp mà Ngài quán chiếu thấy trong thiền định.

Tiến thêm một bước nữa, Tôn giả Xá Lợi Phất biết rằng còn có thành tựu cao hơn, thậm chí có thể chứng nhập vào thành tựu cao hơn đó. Ngài chắc chắn như vậy. Cũng tương tự như vậy, với thiền thứ hai, thiền thứ ba cho đến vô sở hữu xứ, Ngài đều quán chiếu rõ ràng như vậy từng pháp một sinh khởi, hiện hành, đoạn diệt và Ngài cũng đối diện với từng pháp với thái độ như trên, rồi cũng như vậy vượt lên các thành tựu này. Loại quán này được vận hành trong định, nhưng chỉ giới hạn từ thiền thứ nhất cho đến vô sở hữu xứ; còn đối với phi tưởng phi phi tưởng xứ và tưởng thọ diệt định, phải vận hành sau khi xuất định.

a125

Các kinh điển trên có một đặc điểm chung là đều đề cập đến tứ thiền, tứ xứ hoặc chín cấp độ thiền định, nhưng không nhắc đến tam minh, giải thoát và giải thoát tri kiến. Ngược lại, trong các kinh điển này, Thế Tôn chỉ ra quan niệm sai lầm của các đệ tử khi tu tập thiền định, phủ nhận tri thức của đạo khác về thiền định, hơn nữa Ngài còn thuyết giảng các đặc điểm chân chính của thiền định, đồng thời cũng hướng dẫn cần phải đối mặt như thế nào trước các cảnh giới trong thiền định. Kinh sau đề cập đến hiện quán và giải thoát.

Đọc nhiều hơn

1. Trung Nikāya Pāli, Kinh Bất Đoạn, M.III.25~29, Majjhima Nikāya no.111 Anupada Sutta.

2. Kinh này không có bản Hán dịch.

3. Bản dịch tiếng Anh, One by One As They Occurred, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 899~902, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.