Cảnh giới Ma vương (Māra tiếng Pāli là Ma vương)
Vật chất (điều sắc thân cần) + Phi vật chất (các hiểu biết sinh khởi từ tâm)
Kinh Lạp Sư (Nivāpa Sutta, ý dịch là Kinh Bẫy Mồi) ghi chép việc Thế Tôn chứng nhập thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba... cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, tưởng thọ diệt định có thể che đậy cảnh giới của Ma vương (andham-akāsi Māraṁ).

Còn việc che đậy như thế nào, kinh này không trực tiếp đề cập đến. Tuy vậy, kinh có đưa ra bốn ví dụ nhằm phân biệt sự khác nhau giữa phương pháp thiền của Ngài và phương pháp thiền của đạo khác. Bốn ví dụ này cho thấy cách người thợ săn đã đặt bẫy để bẫy hươu, bốn bầy hươu đã rơi vào bẫy và tránh bẫy của người đi săn như thế nào.
Bầy hươu thứ nhất vì không cẩn thận đã ăn mồi nhử do người thợ săn đặt và rơi vào bẫy, chúng bị người thợ săn bắt. Đây là ví với loại Bà la môn thứ nhất, vì không lưu tâm nên rơi vào mồi nhử vật chất do Ma vương đặt sẵn và bị Ma vương khống chế.
Kinh Bẫy Mồi (Kinh Nivāpa) - Ví dụ thứ nhất

Bầy hươu thứ hai biết rõ rằng bầy hươu thứ nhất vì không cẩn thận, ăn phải mồi nhử và bị bắt nên chúng tránh xa bẫy mồi và sự hưởng thụ, đi vào rừng sâu, ở những nơi hoang vắng. Nhưng sau đó, do mùa nóng trời khô hạn, nước và cỏ đều đã dùng hết, trong lúc đói khát, thân thể mệt mỏi, không đủ sức để chịu đựng mọi bức bách, chúng đành phải quay lại tìm bẫy mồi mà người thợ săn đã đặt sẵn, do vậy đã bị người thợ săn bắt.
Đây là ví với loại Bà la môn thứ hai, xa rời cuộc sống con người, đến tu hành trên núi, trong rừng và những nơi xa vắng, lấy rau dại và hoa quả làm đồ ăn. Họ thoát khỏi Ma vương và tu hành đạt đến tâm giải thoát. Nhưng đến mùa nóng, khi trời khô hạn, thức ăn đã dùng hết, thân thể mệt mỏi, tâm không thể tinh tấn dụng công tu hành. Vì thế, họ mất đi thành tựu của tâm giải thoát. Khi mất đi tâm giải thoát, họ lại quay về với bẫy mồi vật chất mà Ma vương đã sắp đặt sẵn. Họ nhất thời xa rời Ma vương nhưng cuối cùng vẫn bị khống chế.
Kinh Bẫy Mồi (Kinh Nivāpa) - Ví dụ thứ hai

Bầy hươu thứ ba hiểu rõ nguyên nhân bầy hươu thứ nhất và bầy hươu thứ hai bị bắt. Chúng sống gần nơi người đi săn đặt bẫy nên rất thận trọng khi ăn để tránh rơi vào bẫy. Sau khi biết như vậy, người đi săn liền mở rộng phạm vi đặt bẫy để dễ bề tìm được nơi trú ẩn của bầy hươu. Vì thế, bầy hươu thứ ba cũng bị bắt.
Đây là ví với loại Bà la môn thứ ba, không tránh xa bẫy mồi mang tính vật chất của Ma vương. Dù có thể họ rất thận trọng khi lấy đồ ăn nhưng họ lại sinh khởi các loại hiểu biết, chính là những cạm bẫy phi vật chất như: thế giới là vĩnh hằng hay không vĩnh hằng; thế giới là hữu biên hay vô biên; thân và tâm là một hay không là một; sau khi mệnh chung, Như Lai vẫn còn tồn tại hay không tồn tại. Như vậy, loại Bà la môn thứ ba này vẫn không thể thoát khỏi sức mạnh và phạm vi khống chế của Ma vương. Bẫy Ma vương từ mang tính vật chất mở rộng thành phi vật chất.
Kinh Bẫy Mồi (Kinh Nivāpa) - Ví dụ thứ ba

Bầy hươu thứ tư hiểu rõ nguyên nhân ba bầy hươu trước rơi vào tay của người thợ săn, chúng quyết định đến ở nơi mà người thợ săn và những tùy tùng của ông ta không thể đến được. Không chỉ có vậy, khi ăn uống chúng vô cùng thận trọng và chú ý. Người đi săn không tìm thấy bầy hươu thứ tư. Họ liền mở rộng phạm vi bẫy mồi và đặt các cạm bẫy, nhưng vẫn không bắt được bầy hươu này. Người thợ săn nghĩ nếu làm cho bầy hươu này hoảng sợ thì chúng cũng sẽ làm những bầy hươu khác trở nên cảnh giác hơn; cuối cùng thì tất cả các bầy hươu đều sẽ tránh xa bẫy mồi của ông ta. Thế là ông quyết định tha cho bầy hươu thứ tư. Vì thế, bầy hươu này không bị người thợ săn bắt.
Đây là ví với loại Bà la môn thứ tư, có thể an trú trong cảnh giới mà Ma vương và họ hàng của nó không thể đạt đến. Họ cũng thận trọng, chú tâm trong việc ăn uống, không để rơi vào cạm bẫy mang tính vật chất cũng như phi vật chất của Ma vương. Họ thoát ra khỏi sức mạnh và phạm vi khống chế của Ma vương. Cảnh giới mà Ma vương và họ hàng của nó không thể đạt đến chính là thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư... phi tưởng phi phi tưởng xứ, tưởng thọ diệt định.
Kinh Bẫy Mồi (Kinh Nivāpa) - Ví dụ thứ tư

Bốn ví dụ này cũng đề cập đến các điều kiện để có thể chứng nhập vào thiền định mà không bị Ma vương quấy nhiễu:
(1) Cẩn thận trong việc chọn đồ ăn, thức uống và các vật phẩm vật chất, không thể trễ nải hay sơ sót.
(2) Sống xa rời con người, độc cư tu hành không phải là điều kiện duy nhất để đạt đến giải thoát.
(3) Không nên sinh khởi các loại hiểu biết không có quan hệ tất yếu với giải thoát, đặc biệt là các loại hiểu biết nương vào thành tựu thiền định mà sinh khởi.
(4) Phải thận trọng khi chọn lựa đồ ăn thức uống và các đồ dùng mang tính vật chất trong việc duy trì thể lực và tâm lực để có thể duy trì được chánh niệm tỉnh giác trong thiền định, không nên vì thế mà sinh khởi các loại nhận thức sai lầm.
Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli, Kinh Bẫy Mồi, M.I.151~160, Majjhima Nikāya no.25 Nivāpa Sutta.
2. Bản Hán dịch, Kinh Trung A Hàm, Kinh Lạp Sư, T1.718b~720a.
3. Bản dịch tiếng Anh, The Bait, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 246~252, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.