Chín tầng bậc định → Tri kiến của chín tầng bậc định → Tri kiến thanh tịnh của chín tầng bậc định → Vô sở trước cứu cánh Niết bàn
Căn cứ theo Tiểu Kinh Thí Dụ Lõi Cây, kinh thuyết giảng cho Bà la môn, những vị chứng đắc chín tầng bậc thiền định vẫn cần phải tu tập đạt đến tri và kiến của chín cấp độ thiền định này, như vậy thì những thiền định này mới có thể hỗ trợ cho Niết bàn. Những tri và kiến này đều là để thành tựu giải thoát bất động tâm, một tên gọi khác của Niết bàn. Từ nguồn gốc của kinh này, chúng ta hiểu Thế Tôn cố ý chỉ ra rằng: các năng lực kỳ dị mà đạo khác tu tập và đạt được không giúp ích gì cho việc chứng đắc Niết bàn, thậm chí chín cấp độ thiền định cũng cần phải dựa vào tri và kiến mới có thể thành tựu thù thắng, siêu việt và trợ giúp cho Niết bàn.
Có một vị Bà la môn tên là Piṅgala-koccho thỉnh giáo Đức Phật: sáu phái đạo khác rốt cuộc có tri thức trực tiếp (abbhiññā) hay không? Thế Tôn đáp rằng ông ta không nên hỏi những câu như vậy. Ngược lại, Thế Tôn còn thuyết pháp và yêu cầu ông ta cung kính lắng tai nghe. Thế Tôn lấy ví dụ: Có một người đi vào rừng sâu tìm cây gỗ lớn. Anh ta tìm thấy một cái cây to, có lá, có hoa quả, các cành chắc khỏe. Người này ngắt lá, hái hoa quả, chặt các cành to khỏe, rồi rất hài lòng trở về nhà. Anh ta chẳng hề có được gỗ và cũng quên luôn mục đích ban đầu của mình là muốn tìm gỗ.
Thế Tôn dạy rằng có những người giỏi trì giới, tinh thông thiền định, làu thông tri và kiến, cũng vì vậy mà được tán thán, khen ngợi, có thanh danh. Người này mãi chìm đắm trong những lời khen ngợi của người khác, vì thế mà trở nên kiêu ngạo và coi thường những người chưa đạt được thành tựu này. Thế Tôn nói rằng những người này cũng giống như người vào rừng sâu tìm gỗ kia, sau khi hái được lá, quả, chặt được các cành cây thì liền trở về nhà mà quên cả mục đích ban đầu của mình.
Ý Thế Tôn chỉ lục sư ngoại đạo, khi có được chút thành tựu trên con đường tu tập, đạt được các năng lực kỳ dị thì trở nên kiêu ngạo. Họ khoe khoang những năng lực kỳ dị này và lập ra các loại luận thuyết tranh biện với người khác. Họ đã quên mất mục tiêu xuất gia tu phạm hạnh của mình.
Thế Tôn dạy rằng, nếu có vị nào đạt được giới, định, tri và kiến, nhưng không tự hài lòng với mình, ngược lại dùng tri và kiến này đi tìm cầu cảnh giới (dhammā) cao thượng hơn (uttari-tarā), trác việt hơn (paṇīta-tarā), vị đó cuối cùng sẽ chứng đắc Niết bàn. Vị đó chứng đắc thiền thứ nhất. Với tri và kiến đó đồng hành, thiền thứ nhất trở thành cảnh giới cao thượng hơn, trác việt hơn. Nói cách khác, trong lời giáo huấn của Thế Tôn, chứng nhập thiền thứ nhất, cần phải lấy tri kiến làm bạn. Cảnh giới chứng đắc thiền thứ nhất mà không có tri và kiến thì cũng vô ích với đạo giải thoát.
Cũng tương tự như vậy, chứng nhập thiền thứ hai, thiền thứ ba... cho đến tưởng thọ diệt định, chỉ cần lấy tri kiến làm bạn, các cảnh giới thiền định này đều là các cảnh giới cao thượng và trác việt. Nhưng những thành tựu này vẫn không phải là mục tiêu của việc tu tập phạm hạnh, giải thoát bất động tâm (akuppā cetovimutti) mới là mục tiêu của việc tu tập phạm hạnh1.
1 M.I.204 - 205.
Giải thoát bất động tâm chính là chỉ Niết bàn, người chứng nhập là bậc Thánh giải thoát, như Kinh Tăng Chi Nikāya có chép rằng: Này các Tỳ kheo, vì đối với thế gian này ta biết được như thực rằng vui vẻ là vui vẻ, nguy hiểm là nguy hiểm, trốn thoát là trốn thoát... Ta sinh khởi tri và kiến, đạt được giải thoát bất động tâm, đây là đời sau cùng, không còn sinh vào đời sau nữa2.
2 A.I.259.
Về quan hệ giữa tri và kiến với Niết bàn, chúng ta có thể tham khảo cuộc đối thoại thú vị giữa Tôn giả Xá Lợi Phất (Sāriputta) và Tỳ kheo Mãn Nguyện Tử (Puṇṇa Mantāṇiputta) trong Kinh Trạm Xe. Tôn giả Xá Lợi Phất hết lòng khen ngợi Tỳ kheo Puṇṇa Mantāṇiputta. Một hôm, Tôn giả gặp vị Tỳ kheo này và hỏi rằng: “Tri kiến thanh tịnh có phải là Niết bàn không?”
Tỳ kheo Puṇṇa Mantāṇiputta trả lời rằng: “Tri kiến thanh tịnh không phải là Niết bàn, mà là để thành tựu vô sở trước cứu cánh Niết bàn (ñāṇa-dassana-visuddhi yāvad-eva anupādā parin-ibbānatthā), vô sở trước cứu cánh Niết bàn là mục tiêu tu tập phạm hạnh của các đệ tử Thế Tôn (An-upā-dā parinibbānatthaṁ kho, āvuso, Bhagavati brahmacariyaṁ vussatîti)”1. Nói cách khác, kinh này đã chứng minh tri kiến của chín cấp độ thiền định không phải là Niết bàn, chín tầng bậc thiền định này cũng không phải là Niết bàn mà chỉ là trợ duyên để hướng đến Niết bàn.
1 M.I.150.


Đối tượng thuyết pháp của kinh này là Bà la môn. Trong kinh, Thế Tôn thể hiện rõ sự khác biệt giữa phương pháp thiền đạo khác và phương pháp thiền của Thế Tôn, và cũng chỉ ra mối quan hệ giữa thiền định và giải thoát. Các đạo khác chấp thủ bản thân thành tựu thiền định là giải thoát, nhưng Đức Phật dựa trên tri thức của mình về thiền định xác nhận rằng cảnh giới thiền định không phải là Niết bàn. Thiền định không phải là nguyên nhân chính thành tựu giải thoát, thiền định là trợ duyên cho việc thành tựu giải thoát.
Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli, Tiểu Kinh Thí Dụ Lõi Cây, M.I. 198-205, Majjhima Nikāya no.30 Cūḷasāropama Sutta.
1.1. Kinh này không có bản Hán dịch.
1.2. Bản dịch tiếng Anh, The Shorter Discourse on the Simile of the Heartwood, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 291~297, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.
2. Trung Nikāya Pāli, Kinh Trạm Xe, M.I. 145~151, Majjhima Nikāya no.24 Rathavinīta Sutta.
2.1. Bản Hán dịch, Kinh Trung A Hàm, Kinh Thất Xa, T1.429c~431c.
2.2. Bản Hán dịch, Kinh Tăng Nhất A Hàm, phẩm Thập Pháp, T2.733c~735b.
2.3. Bản dịch tiếng Anh, The Relay Chariots, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 240~245, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.
