• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Giải mã thiền định và giải thoát - Chìa khóa chứng ngộ của Đức Phật
  3. Trang 43

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 42
  • 43
  • 44
  • More pages
  • 66
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 42
  • 43
  • 44
  • More pages
  • 66
  • Sau

I. Đại Kinh Mahāmāluṅkya

Tu tập thiền định có thể sinh lên cõi trời, cũng có thể đạt đến giải thoát.

Trong bảy định đầu, quán chiếu các pháp vô thường, khổ, vô ngã

→ Đoạn trừ năm hạ phần kết sử, sinh Tịnh cư thiên hoặc chứng đắc hiện pháp Niết bàn

Trọng tâm của Đại Kinh Mahāmāluṅkya là: Đức Phật đã truyền dạy như thế nào về năm hạ phần kết sử. Māluṅkyāputta hoặc còn được gọi là Man đồng tử, vị này đã tranh trả lời trước, năm hạ phần kết sử là thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham dục và sân khuể. Câu trả lời liệt kê lần lượt tên trong năm hạ phần kết sử của Māluṅkyāputta bị Đức Phật chỉ trích. Đức Phật lấy ví dụ để giải thích rõ câu trả lời này sẽ chịu sự phản bác và chế giễu của đạo khác như thế nào.

Đức Phật dạy rằng đạo khác sẽ lấy ví dụ để chế giễu các đệ tử Phật đoạn trừ năm hạ phần kết sử cũng giống như đứa trẻ sơ sinh. Vì trẻ sơ sinh không có khái niệm về năm loại kết sử như thân kiến, nghi, giới cấm thủ... thì sao có thể sinh khởi các hiểu biết về chúng... (nhưng năm loại kết sử này thực sự luôn tiềm ẩn bên trong đứa trẻ này).

a128

Lúc đó, Tôn giả A Nan đứng một bên, vẫn với tác phong nhất quán như thường lệ, khi một Tỳ kheo bị Đức Phật quở trách, Tôn giả sẽ mở lời thỉnh cầu Đức Phật chỉ dạy, giải thích rõ ràng để thính chúng có thể nhận được lợi ích từ việc nghe pháp. Những lời giải thích của Đức Phật không chỉ liệt kê các tên gọi của năm hạ phần kết sử mà còn miêu tả những kết sử này làm thế nào để từ lúc hiện hành cho đến khi trói buộc mà con người lại không thể tự biết, chứ chưa nói đến thoát khỏi các kết sử này.

Một người chưa từng gần gũi bậc Thánh, nghe pháp của bậc Thánh, anh ta sẽ không hiểu được đạo của bậc Thánh và cũng chưa từng sống nương theo Thánh đạo; anh ta cũng chưa từng thân cận với bậc chân nhân, nghe pháp của bậc chân nhân, cũng không hiểu được đạo của bậc chân nhân và sống nương theo đạo của bậc chân nhân. Tâm của anh ta bị thân kiến trói buộc và bị nô dịch, anh ta không biết làm thế nào để thoát khỏi thân kiến đã hiện hành cho đến khi thân kiến này trở thành tập tính không thể đoạn trừ, đó chính là hạ phần kết sử. Tương tự như thân kiến; nghi, giới cấm thủ, tham dục và sân khuể cũng như vậy. Chúng được gọi là năm hạ phần kết sử.

Ngược lại, nếu có người thân cận với bậc Thánh, nghe pháp của bậc Thánh, thành thục đạo của bậc Thánh và sinh sống nương theo đạo của bậc Thánh; vị ấy cũng thân cận với bậc chân nhân, nghe pháp của bậc chân nhân, thành thục đạo của bậc chân nhân và sống nương theo đạo của bậc chân nhân. Tâm của vị ấy không bị trói buộc và nô dịch bởi thân kiến. Vị ấy biết làm thế nào để thoát khỏi thân kiến đã hiện hành, hơn nữa còn đoạn trừ thân kiến này khi nó vẫn đang tiềm ẩn bên trong. Tương tự như với thân kiến; nghi, giới cấm thủ, tham dục và sân khuể cũng như vậy. Đó gọi là đoạn trừ năm hạ phần kết sử.

a129

Đoạn trừ năm hạ phần kết sử này cũng có đạo của nó. Nếu người nào không thực hành theo đạo này mà nói rằng có thể đoạn trừ năm hạ phần kết sử thì đó là việc không thể. Điều này chẳng khác nào người muốn lấy được lõi cây mà không bóc lớp vỏ cây và phần gỗ trắng bên ngoài, đó là việc không thể. Lại như có kẻ yếu đuối đến bên bờ sông Hằng, nước sông dâng đầy và cuồn cuộn chảy, anh ta nghĩ rằng chỉ cần tay không cũng có thể bơi qua bờ bên kia. Dĩ nhiên, anh ta không thể an toàn bơi qua bờ bên kia.

Cũng giống như đem pháp của bậc Thánh truyền thụ cho một người, mà người đó lại không nương theo pháp này để tu tập chứng đắc tín tâm, sự vững chí và lòng quyết tâm, thế thì anh ta có khác gì người yếu đuối không thể bơi sang bờ bên kia. Ngược lại, những vị theo pháp mà tu tập chứng đắc tín tâm, sự vững chí và lòng quyết tâm thì cũng giống như người cường tráng, khỏe mạnh, có thể bơi sang bờ bên kia của sông Hằng.

a130

a131

Vậy con đường để đoạn trừ năm hạ phần kết sử là gì? Đức Phật tiếp tục giải thích năm hạ phần kết sử này phải dựa vào việc chứng đắc thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba... hoặc vô sở hữu xứ để đoạn trừ. Ở đây giải thích bằng việc chứng đắc thiền thứ nhất để đoạn trừ năm hạ phần kết sử. Khi chứng đắc thiền thứ nhất, hành giả nên thường xuyên chánh quán về tướng chân thực của năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức trong cảnh giới thiền định của thiền thứ nhất là vô thường, khổ, không, vô ngã; cũng cần phải coi chúng như là bệnh tật, cục bướu, gai nhọn, tai họa, sự giày vò, kẻ thù, sự tan rã.

Hành giả quán sát như thực tướng chân thực của năm uẩn là vô thường, khổ, không... cái nào cũng cần hành giả phải thấu triệt được mặt chân thực của cảnh giới vi diệu của các thiền này, không được coi các cảnh giới thiền định này là cảnh giới thù thắng tồn tại vĩnh hằng, cũng không nên coi thành tựu thiền định có thể khiến cho bản thân sau khi chết vĩnh viễn bị đoạn diệt, không còn tồn tại.

Để tiến thêm một bước xả bỏ và để tránh chìm đắm trong các cảnh giới thiền định vi diệu này, hành giả cần phải quán sát sâu sắc các cảnh giới này cũng như là bệnh tật, cục bướu, gai nhọn, tai họa, sự giày vò, kẻ thù, sự tan rã. Sau khi quán được bản chất của thiền thứ nhất, hành giả quyết định hướng tâm đến “cảnh giới bất tử” (amatā dhātu): “Sự tịch tĩnh này, sự thù thắng này, đó là hết thảy các hành đoạn diệt, tất cả các chấp trước bị xả bỏ, diệt tham, ly dục, đoạn diệt, Niết bàn”.

Kinh văn nói rằng nếu hành giả an trú trong cảnh giới này, vị ấy có thể đoạn tận tất cả các lậu hoặc. Nhưng nếu vị ấy không thể đoạn tận các lậu hoặc vì sự ham thích vào các pháp, vị ấy có thể đoạn diệt năm hạ phần kết sử và được hóa sinh vào cõi trời Tịnh Cư. Sau này vị ấy không cần phải quay trở lại thế gian mà có thể từ cõi đó chứng đắc cứu cánh Niết bàn. Thế Tôn dạy rằng, đó chính là con đường đoạn trừ năm hạ phần kết sử.

a132

Tịnh Cư thiên là nơi cao nhất trong sắc giới. Đoạn kinh văn dạy phép quán này hướng dẫn cho hành giả sau khi chứng đắc thiền thứ nhất thì không nên đắm đuối trong cảnh giới của nó mà cần phải xả ly thiền thứ nhất để chứng nhập thiền thứ hai, cho đến thiền thứ tư, từ thiền thứ tư đoạn diệt hết các tâm hành và chứng nhập Niết bàn.

Nếu không chứng được Niết bàn, sau khi mệnh chung, vị đó có thể hóa sinh đến cõi cao nhất của sắc giới, Tịnh Cư thiên. Dựa trên thực tế thực hành, Thế Tôn giáo giới các đệ tử không nên ngưng trệ ở thiền thứ nhất, càng không nên giống như một nhóm hành giả đạo khác coi thiền thứ nhất là Niết bàn.

Từ một điểm khác, chúng ta có thể phân tích rằng, ở đây, Thế Tôn gợi ý cho các đệ tử tiến tới tu thiền thứ hai cho đến thiền thứ tư, sau đó chứng đắc cứu cánh Niết bàn. Kinh văn viết rằng: “Sự tịch tĩnh này, sự thù thắng này, đó là hết thảy các hành đoạn diệt, tất cả các chấp trước bị xả bỏ, diệt tham, ly dục, đoạn diệt, Niết bàn. Tất cả các hành diệt là chỉ thân, khẩu, ý hành đều bị diệt tận”.

Thân, khẩu, ý hành bị diệt tận như thế nào? Hành giả chứng nhập thiền thứ hai, không tầm, không tứ, đó chính là khẩu hành diệt; chứng nhập thiền thứ tư, ngừng thở, nghĩa là thân hành diệt; không tìm cầu các loại thần thông không liên quan gì đến giải thoát trong thiền thứ tư hoặc chứng đắc tứ vô sắc định, chính là tâm hành diệt.

Cho nên, đoạn kinh văn trên nói tất cả các hành diệt, thực chất chính là Niết bàn, cũng thể hiện hành giả cần phải chứng nhập thiền thứ tư mới có thể chứng đắc cứu cánh Niết bàn. Kinh văn không bàn luận đến thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư. Điều này liệu có đồng nghĩa với việc hành giả thực hiện được phép quán trong thiền thứ nhất thì có thể nhanh chóng vượt qua thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư, từ đó chứng đắc Niết bàn chăng? Điểm này đáng để chúng ta chú ý. Dù sao ý của kinh văn là hành giả cần thực hiện phép quán trong thiền thứ nhất để chứng đắc Niết bàn, điều này không có gì đáng phải nghi ngờ.

Hành giả chứng nhập thiền thứ hai, thiền thứ ba và thiền thứ tư cũng quán sát như thực như vậy để chứng đắc Niết bàn. Còn đối với hành giả chứng nhập tứ vô sắc định, nội dung quán sát như thực thiếu đi sắc, còn lại đều giống như bốn thiền trước. Hành giả chứng đắc không vô biên xứ cũng quán sát như thực tướng chân thực của các uẩn thọ, tưởng, hành, thức trong cảnh giới thiền định, cũng chính là vô thường, khổ, không, vô ngã, còn cần phải coi chúng như là bệnh tật, cục bướu, gai nhọn, tai họa, sự giày vò, kẻ thù, sự tan rã.

Hành giả chứng nhập thức vô biên xứ và vô sở hữu xứ cũng như vậy, phải quán sát như thực đối với cảnh giới thiền định. Nhưng về việc quán sát khi chứng nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ và tưởng thọ diệt định, kinh này không hề nhắc tới. Nguyên nhân theo như Kinh Bất Đoạn là hành giả không thể thực hiện phép quán trong hai cảnh giới thiền định này.

a133

a134

a135

Đại Kinh Mahāmāluṅkya tiếng Pāli nêu trên đề cập đến việc nếu đời này không đạt được Niết bàn, sau khi mệnh chung sẽ hóa sinh về đâu; còn trong kinh Hán dịch tương ứng, Kinh Ngũ Hạ Phần Kết thì nói đến việc hiện tại không đạt đến Niết bàn thì sẽ hướng đến cảnh giới thiền định cao hơn. Kinh Ngũ Hạ Phần Kết giải thích rõ nếu hành giả sau khi quán cảnh giới thiền định một cách triệt để nhưng vẫn không thể chứng đắc Niết bàn trong đời này thì vị ấy sẽ tiến lên cảnh giới thiền định ở tầng bậc cao hơn. Cuối cùng, vị ấy thực hiện phép quán trong vô sở hữu xứ và chứng đắc Niết bàn. Kinh Trung A Hàm quyển 56, Kinh Ngũ Hạ Phần Kết:

Đoạn trích thứ nhất:

“Này A Nan, cũng giống như sông Hằng, nước đầy tràn bờ, nếu có người đến bờ bên kia, có việc muốn qua sông, người đó liền nghĩ rằng: sông Hằng này, nước đầy tràn bờ, ta có việc muốn qua bờ bên kia nhưng thân không đủ sức để ta có thể an toàn bơi sang bờ bên kia. Này A Nan, thầy nên biết người đó không đủ sức lực.

Cũng như vậy, này A Nan, nếu có người giác ngộ được đoạn diệt, Niết bàn, tâm của họ không thích thú với việc này, không thanh tịnh, không an trú trong giải thoát. Này A Nan, nên biết người này cũng giống như người yếu đuối không có sức lực kia vậy.

Này A Nan, cũng giống như sông Hằng, nước đầy tràn bờ, nếu có người đến bờ bên kia, có việc muốn sang bờ bên kia, vị ấy liền nghĩ rằng: sông Hằng này, nước đầy tràn bờ, ta có việc muốn qua sông, thân ta nay có đủ sức lực để ta có thể bơi qua bờ bên kia. Này A Nan, nên biết người đó có đủ sức lực.

Như vậy, này A Nan, nếu có người giác ngộ được đoạn diệt, Niết bàn, tâm hướng đến thanh tịnh và an trú trong giải thoát. Này A Nan, nên biết rằng người này cũng giống như người có sức lực kia”.

Đoạn trích thứ hai:

“Này A Nan, cũng giống như dòng nước lũ, rất sâu và rộng, dòng chảy dài và xiết, cuốn phăng đi nhiều thứ, quãng giữa không có thuyền, cũng không có cầu. Có người sang bờ bên kia, có việc muốn tìm cách qua sông, khi người đó muốn qua sông và nghĩ rằng: nay nước ở đây vừa sâu vừa rộng, dòng dài chảy xiết, cuốn phăng mọi thứ, quãng giữa không có thuyền bè, cũng không có cầu để có thể sang bờ bên kia, ta có việc muốn qua bờ bên kia, nên dùng phương tiện gì để ta có thể an toàn sang bờ bên kia đây?

Người đó lại nghĩ rằng: nay ta thà rằng ở bờ bên này thu nhặt cỏ cây, buộc lại làm bè sậy, lên bè sang sông. Người đó liền thu nhặt cỏ cây, buộc thành bè sậy, lên bè mà qua sông, an toàn sang đến bờ bên kia.

Như vậy, này A Nan, nếu có Tỳ kheo phan duyên vào yếm ly; nương theo yếm ly; an trú trong yếm ly; ngừng thân ác; tâm nhập ly, định; ly dục, ly pháp ác bất thiện; có cảm thọ, có quán, có hỷ lạc do ly dục sinh, chứng đắc thành tựu thiền thứ nhất. Vị đó nương theo xứ này, quán cảm thọ sinh diệt. Vị đó nương theo xứ này, quán sát sự sinh diệt của cảm thọ rồi an trú trong đó ắt chứng đắc lậu tận. Giả sử vị ấy an trú trong đó mà vẫn không chứng đắc lậu tận thì sẽ thẳng tiến lên tịch tĩnh xứ.

Thế nào gọi là thẳng tiến và đạt đến tịch tĩnh xứ? Vị đó cả cảm thọ và việc thực hiện phép quán đều ngừng, nội tĩnh, nhất tâm, không có cảm thọ, không có quán, hỷ lạc do định sinh, chứng đắc thành tựu thiền thứ hai. Vị đó nương theo xứ này, quán cảm thọ sinh diệt. Vị đó nương theo xứ này, quán sát sự sinh diệt của cảm thọ rồi, an trú trong đó ắt chứng đắc lậu tận. Giả sử vị ấy an trú trong đó mà vẫn không chứng đắc lậu tận ắt sẽ thẳng tiến lên tịch tĩnh xứ”1.

1 Đại chính tạng, tập 1, trang 779, b24 - c26.

Đoạn trích thứ nhất nhấn mạnh tâm phải hướng giải thoát, đoạn trích thứ hai đề cao phải dùng phương tiện mới có thể vượt qua dòng lớn sinh tử. Nếu có người biết có đoạn diệt, có Niết bàn nhưng tâm không hướng tới đoạn diệt, không hướng tới Niết bàn, anh ta cũng giống như người không có sức ở đoạn trên, không thể vượt qua sông. Ngược lại, nếu có người biết có đoạn diệt, có Niết bàn và tâm hướng đến đoạn diệt, Niết bàn thì vị ấy cũng như người có sức ở đoạn trên, có thể vượt qua bờ bên kia, cuối cùng cũng có thể đạt đến đoạn diệt, Niết bàn.

Đoạn kinh văn thứ hai nói về một người muốn vượt qua dòng sông lớn, nước chảy siết cần phải dùng cỏ, cây sậy làm bè để qua sông lớn. Một vị hành giả muốn vượt qua dòng sinh tử cũng cần phải mượn sức mạnh của thiền định và hiện quán để đoạn tận tất cả các lậu hoặc. Nếu không thể đoạn tận các lậu hoặc thì cũng có thể tiến lên cảnh giới thiền định ở tầng bậc cao hơn.

Trong kinh Hán dịch nói đến “quán”, là quán giác hưng suy. Trong kinh văn này, “quán” là chỉ “thọ” hoặc “cảm thọ”, “hưng suy” là “sinh diệt”. Trong định quán sự sinh diệt của thọ mà chứng đắc lậu tận, đây là sự tu tập từ định sinh tuệ.

Quán sinh diệt nghĩa là tu tuệ và đạt đến diệt tận tất cả khổ, như trong Kinh Thủ Trưởng Giả - Trung A Hàm, Thế Tôn nói với Thủ trưởng giả: có tám pháp chưa từng có, trong đó pháp cuối cùng là tuệ. Tuệ được giải thích là:

“Nói Thủ trưởng giả có tuệ, là do nhân gì? Thủ trưởng giả tu hành trí tuệ, quán sát sự sinh diệt của các pháp; đạt được trí tuệ như vậy, bằng Thánh tuệ minh đạt, phân biệt rõ ràng mà hoàn toàn thoát khổ”1.

1 Đại Chánh Tạng tập 1, trang 484c. Người dịch trích từ bản dịch của Hòa thượng Tuệ Sỹ: Kinh Trung A Hàm Tập 1, Kinh Thủ Trưởng Giả, Nhà xuất bản: Tôn giáo, Hà Nội; 2008; Trang 318.

Quán sự sinh diệt của các pháp, đoạn tận tất cả khổ, trong Kinh Tức Vị Tỳ Kheo Thuyết cũng có nội dung tu hành trí tuệ tương tự. Tóm lại, Kinh Ngũ Hạ Phần Kết Hán dịch ghi chép về phép quán là quán sinh diệt, quán vô dục, quán diệt, quán đoạn và quán xả.

a136

Kinh Ngũ Hạ Phần Kết có nhắc đến vô sở hữu xứ, sau đó dùng hiện quán để chứng đắc Niết bàn, quả vị A la hán. Kinh nói rằng:

“Như thế nào gọi là thẳng tiến lên tịch tĩnh xứ? Vị đó vượt qua tất cả vô lượng thức xứ, chứng nhập vô sở hữu xứ, thành tựu vô sở hữu xứ. Nếu vị đó có cảm thọ, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc bất lạc bất khổ, vị đó quán cảm thọ đó vô thường, quán cảm thọ đó sinh diệt, quán vô dục, quán diệt, quán đoạn, quán xả.

Vị đó cứ như vậy quán cảm thọ đó là vô thường, quán cảm thọ đó sinh diệt, quán vô dục, quán diệt, quán đoạn, quán xả, không còn chấp chặt với thế gian này; đã không còn chấp chặt với thế gian này thì không còn sợ hãi; vì không còn sợ hãi nên đạt đến Niết bàn; sinh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa, biết chân thực như vậy”1.

1 Đại Chánh Tạng tập 1, trang 780, a16 - 23.

Đoạn văn trên: “Không còn chấp chặt với thế gian này; đã không còn chấp chặt với thế gian này thì không còn sợ hãi; vì không còn sợ hãi nên đạt đến Niết bàn”, tương ứng với đoạn văn Pāli sau đây: “Na kiñci loke upādiyati, anupādiyaṁ na paritassati, aparitassaṁ paccat- taṁ yeva parinibbāyati”. Tỳ kheo Bodhi dịch sang tiếng Anh là: “He does not cling to anything in this world. When he does not cling, he is not agitated. When he is not agitated, he personally attains Nibbāna” (Vị đó không chấp chặt vào bất cứ điều gì trên thế gian này. Vì không chấp chặt, vị đó không sợ hãi. Vì không sợ hãi, bản thân vị đó đạt đến Niết bàn). Tiếng Trung dịch là vị ấy không còn chấp trước gì với thế gian, không còn chấp trước gì với thế gian nên không sợ hãi, không sợ hãi nên đạt đến Niết bàn. Trong định thực hiện phép quán như vậy, tu quán như vậy, từ đó chứng đắc Niết bàn trong hiện tại.

Đại Kinh Mahāmāluṅkya tiếng Pāli và kinh Hán dịch Ngũ Hạ Phần Kết là hai kinh điển cùng dịch từ một bản gốc, cách dùng từ “Giải thoát bằng tu quán chứng đắc Niết bàn trong hiện tại” hơi khác biệt nhưng cả hai kinh này đều là thực hiện phép quán trong định, cuối cùng chứng đắc Niết bàn.

Kinh Pāli đề cập đến việc thực hiện phép quán trong cảnh giới thiền định có thể chứng nhập Niết bàn ngay trong hiện tại hoặc kiếp này. Đến lúc mệnh chung mà chưa chứng đắc Niết bàn thì chí ít cũng có thể hóa sinh lên Tịnh Cư thiên. Trong kinh Hán dịch cũng nhắc đến việc thực hiện phép quán trong định, chứng nhập Niết bàn ngay trong hiện tại. Nếu không chứng đắc Niết bàn trong hiện tại thì tiếp tục củng cố thêm định lực để hướng đến thiền định ở tầng bậc cao hơn.

a137

Giải thích về việc thực hiện phép quán sau khi chứng nhập vô sở hữu xứ và chứng đắc Niết bàn trong hiện tại, Kinh Ngũ Hạ Phần Kết bản Hán dịch và Đại Kinh Mahāmāluṅkya tiếng Pāli có chỗ khác biệt. Bản Pāli nói rằng: sau khi thực hiện phép quán trong cảnh giới vô sở hữu xứ thì có thể chứng nhập Niết bàn hoặc sau khi mệnh chung hóa sinh lên Tịnh Cư thiên; nhưng đoạn cuối cùng của bản Hán dịch, Tôn giả A Nan lại hỏi Đức Phật rằng: tại sao có người nghe pháp thì tu chứng, trong khi đó có người nghe pháp lại không tu chứng? Kinh đã lấy một ví dụ để giải thích. Kinh Trung A Hàm quyển 56, Kinh Ngũ Hạ Phần Kết chép rằng:

“Cũng giống như đến thôn không xa, có cây chuối to, nếu người ta dùng rìu chặt cây chuối ra thành nhiều mảnh; chặt thành 10 phần, hoặc 100 phần. Sau khi chặt thành 10 phần hoặc chặt thành 100 phần rồi, lại tách lá, đến bẹ lá còn không thấy, há lại thấy lõi được sao?

Này A Nan, nếu Tỳ kheo đó có cảm thọ, hoặc lạc, hoặc khổ, hoặc bất khổ bất lạc, vị đó quán cảm thọ này là vô thường, quán cảm thọ này sinh diệt, quán vô dục, quán diệt, quán đoạn, quán xả.

Vị đó cứ như vậy quán cảm thọ này là vô thường, quán cảm thọ này sinh diệt, quán vô dục, quán diệt, quán đoạn, quán xả; vị đó không còn chấp chặt vào đời này nữa; không còn chấp chặt vào đời này nữa thì không sợ hãi; vì không sợ hãi nên đạt đến Niết bàn; sinh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm xong, không còn thọ sinh nữa, biết chân thực như vậy.

Lúc bấy giờ Tôn giả A Nan chắp tay hướng về Đức Phật mà bạch:

“Bạch Thế Tôn! Kỳ lạ thay! Hy hữu thay! Thế Tôn vì các Tỳ kheo y trên y, thiết lập y, giảng thuyết về sự xả ly lậu, nói về sự vượt qua lậu, nhưng các Tỳ kheo không nhanh chóng chứng đắc vô thượng, nghĩa là đạt đến cứu cánh diệt tận”.

Thế Tôn nói:

“Thật vậy, A Nan! Thật vậy, A Nan! Thật là kỳ lạ! Thật là hy hữu! Ta vì các Tỳ kheo, y trên y, thiết lập y, nói về sự xả ly lậu, nói về sự vượt qua lậu, nhưng các Tỳ kheo không nhanh chóng vượt chứng đắc vô thượng, nghĩa là đạt đến cứu cánh diệt tận. Vì sao vậy? Vì sự thắng liệt nơi mỗi người cho nên sự tu học có tinh, có thô. Do sự tu học đạo có tinh có thô, cho nên mỗi người có sự thắng liệt khác nhau. A Nan, vì vậy Ta nói mỗi người có sự thắng liệt khác nhau”.

Phật thuyết như vậy. Tôn giả A Nan và các Tỳ kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành”1.

1 Đại Chánh Tạng tập 1, trang 780, a23 - b13. Người dịch trích từ bản dịch của Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh chủ biên, Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh Tập 4, Kinh Trung A Hàm Số 2; Mục lục: 205. Kinh Ngũ Hạ Phần Kết; Nhà xuất bản: Đài Loan; 2000; Trang: 821.

Tương tự như Kinh Gopaka-moggallāna ghi chép, có Bà la môn thỉnh Thế Tôn chỉ dạy con đường dẫn đến Niết bàn, vì sao có đệ tử thì đạt được giải thoát trong khi có đệ tử lại không chứng đắc Niết bàn. Thế Tôn đáp rằng: Như Lai là người chỉ đường (Maggakkhāyī) dẫn đến đạo giải thoát này, Như Lai đã chỉ ra con đường hướng đến giải thoát Niết bàn, có đệ tử đi theo con đường đó mà đạt đến giải thoát, lại có những đệ tử vẫn chưa đến đích, thì Như Lai có thể làm được gì đây?” Đoạn trích trên dường như đã giải thích rõ thêm vấn đề này.

Tôn giả A Nan hỏi Thế Tôn, vì sao có những đệ tử chứng đắc vô thượng chánh giác, cứu cánh giải thoát rất nhanh chóng, nhưng lại có những đệ tử không thể. Thế Tôn trả lời rằng: “Vì con người cũng có người ưu tú, kẻ hạ liệt nên việc tu đạo cũng có tinh, có thô; vì việc tu đạo cũng có tinh, có thô nên con người có người ưu tú, kẻ kém cỏi”. Căn tính của chúng sinh có chia ra giỏi - kém, thành tựu tu đạo cũng có sự khác biệt về tốc độ nhanh - chậm; việc tu đạo cũng chia ra sự tinh - thô khác nhau, căn tính của chúng sinh cũng có sự khác biệt về giỏi hay kém.

Dù phép quán có sự khác biệt nhưng kết quả thì thống nhất, chính là chứng đắc Niết bàn, đạt được giải thoát ngay trong kiếp này.

Đọc nhiều hơn

1. Trung Nikāya Pāli, Kinh Mahāmāluṅk-ya, M.I.432~437, Majjhima Nikāya no.64 Mahāmāluṅkya Sutta.

2. Bản Hán dịch, Kinh Trung A Hàm, Kinh Ngũ Hạ Phần Kết, T1.778c~780b.

3. Bản dịch tiếng Anh, The Greater Discourse to Māluṅkyāputta, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 537~541, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.