• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Giải mã thiền định và giải thoát - Chìa khóa chứng ngộ của Đức Phật
  3. Trang 48

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 47
  • 48
  • 49
  • More pages
  • 66
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 47
  • 48
  • 49
  • More pages
  • 66
  • Sau

VI. Kinh Tổng Thuyết Và Biệt Thuyết

Không chấp trước vào cảnh giới của ngũ dục, không chấp trước vào cảnh giới thiền định

Thức đối với ngoại cảnh phân tán hoặc không

Thức đối với nội trần an trú hoặc không

Thức đối với ngoại cảnh không phân tán, đối với nội trần không an trú; như vậy đạt đến Niết bàn

Kinh Tổng Thuyết Và Biệt Thuyết (Uddesa-vibhaṅga Sutta) trong Trung Nikāya bàn về việc chứng nhập Niết bàn bằng phương pháp không chấp thủ từ hai điểm sau:

Điểm thứ nhất: Khi sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với sáu cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sẽ sinh ra hỷ duyệt (vui mừng - assada). Đối diện với hỷ duyệt này, hành giả có thể khiến cho tâm không động loạn (avikkhitta) và không phân tán (avisata).

Điểm thứ hai: Khi chứng nhập thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba và thiền thứ tư, hành giả không an trú (asaṇṭhita) trong các cảm thọ như hỷ thọ, lạc thọ, phi hỷ phi lạc thọ do các thiền này mang lại. Vì không động loạn, không phân tán, không an trú nên không chấp thủ (anupādā), không nhiễu loạn (aparitassanā). Vì không chấp thủ, không nhiễu loạn nên hành giả chứng đắc hiện pháp Niết bàn. Từ thiền thứ tư, Kinh Tổng Thuyết Và Biệt Thuyết này ghi chép về việc tu tập chứng đắc Niết bàn từ thiền định.

Kinh Tổng Thuyết Và Biệt Thuyết bắt nguồn từ việc Đức Phật tự thuyết cho các Tỳ kheo. Ngài đưa ra một đoạn giáo huấn tóm lược sau:

Này các Tỳ kheo, vị Tỳ kheo cần phải quán sát (upaparikkheyya) một cách như thế nào để thức của vị ấy đối với ngoại trần không tán loạn (avikkhitta), không tản rộng (avisata), tâm không trú (asaṇṭhita) trước nội trần, không bị chấp thủ (anupādāya) và quấy rối (na paritasseyya). Này các Tỳ kheo, nếu thức đối với ngoại cảnh không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội trần, không bị chấp thủ và quấy rối sẽ không có tập khởi, sinh khởi của khổ về sinh, già, chết trong tương lai1.

1 Người dịch trích từ bản dịch của Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ 2, Kinh số 138 - Kinh Tổng Thuyết Và Biệt Thuyết, NXB: Tôn giáo, Hà Nội; năm 2012; trang: 563.

a150Đức Phật thuyết pháp xong thì rời chỗ ngồi để đi tĩnh tọa. Mọi người trong Tăng chúng nhìn nhau không biết rốt cuộc Đức Phật muốn nói gì? Cuối cùng, họ quyết định đi hỏi Tôn giả Đại Ca Chiên Diên (Tôn giả Mahā Kaccāna), người được Đức Thế Tôn khen ngợi là có khả năng nghị luận đệ nhất. Tôn giả Mahā Kaccāna giải thích cho mọi người câu: “Thức của vị ấy đối với ngoại cảnh không tán loạn, không tản rộng, thức không trú trước nội trần, không bị chấp thủ và quấy rối”.

Về câu: “Thức của vị ấy đối với ngoại cảnh không tán loạn, không tản rộng”, Tôn giả trước tiên giải thích câu: “Thức đối với ngoại cảnh tán loạn, tản rộng”, nghĩa là mắt nhìn thấy sắc thì thức của nó (nhãn thức) chạy theo (anusārī) sắc; mắt nhìn thấy sắc sinh ra hân hoan (hỷ duyệt, assada); thức bị trói buộc (gathita) vào sự hân hoan này. Do thức chạy theo ngoại sắc, từ đó bị trói buộc, cột chặt bởi sự hân hoan sinh ra do mắt nhìn thấy sắc. Đấy chính là thức hướng ra bên ngoài phân tán, rối loạn.

Cũng tương tự như vậy, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm mùi vị, thân chịu xúc chạm, ý đối diện với pháp, từ đó các thức tương ứng chịu sự trói buộc, cột chặt của hân hoan. Sự hân hoan này là do các căn tiếp xúc các cảnh sinh ra. Thức của chúng bị nhiễu loạn, phân tán trước ngoại cảnh. Tiếp đó, Tôn giả giải thích câu trước: “Thức của vị ấy đối với ngoại cảnh không tán loạn, không tản rộng”. Đối lập với vế trước, vế sau này chỉ khi sáu căn (mắt, tai...) tiếp xúc với sáu cảnh (sắc, thanh...), thức không chạy theo ngoại cảnh, cũng không bị sự hân hoan (hỷ duyệt) sinh ra do ngoại cảnh trói buộc, cột chặt.

a151

a152

a153

Thứ hai, Tôn giả giải thích “Thức không an trú trước nội trần”. Đầu tiên, Tôn giả giải thích “Thức an trú trước nội trần” là chỉ khi chứng nhập vào thiền nhứ nhất, thức chạy theo hỷ thọ, lạc thọ do ly dục sinh; thức bị trói buộc, cột chặt vào sự hân hoan (hỷ duyệt) do hỷ thọ, lạc thọ này sinh; vì thức chạy theo hỷ thọ, lạc thọ này, tiến tới bị trói buộc, cột chặt bởi hân hoan do hỷ thọ, lạc thọ này mang lại, đây gọi là “an trú trước nội trần”.

Ngược lại, “Thức không an trú trước nội trần” là chỉ thức không chạy theo hỷ thọ, lạc thọ do ly dục sinh, cũng không bị trói buộc, cột chặt bởi sự hân hoan do hỷ thọ, lạc thọ sinh. Cũng tương tự như vậy, khi chứng đắc thiền thứ hai, thiền thứ ba và thiền thứ tư, thức của hành giả không chạy theo các loại cảm thọ vi diệu do thiền định sinh ra, cũng không bị các loại cảm thọ vi diệu này trói buộc, cột chặt. Đây gọi là “Thức không an trú trước nội trần”.

a154

a155

Thức không an trú trước nội trần, không bị chấp thủ và quấy rối. Cuối cùng, Tôn giả giải thích “Vì không chấp thủ nên không bị dao động (paritassana). Đầu tiên, “Vì có chấp thủ nên bị dao động” là chỉ hành giả chấp thủ “Sắc là ngã” (rūpaṁ attato samanupassati), “Ngã có sắc” (rūpavantaṁ vā attānaṁ), “Sắc ở trong ngã” (attani vā rūpaṁ), “Ngã ở trong sắc” (rūpasmiṁ vā attānaṁ). Khi sắc có sự thay đổi, biến động thì tâm của hành giả vì thế cũng chịu ảnh hưởng. Sắc biến động và tâm chịu ảnh hưởng, hai việc này xảy ra đồng thời và choán hết tâm của hành giả. Vì sự chiếm cứ trọn vẹn này, tâm hành giả buồn phiền, đau khổ, lo lắng, vì chấp thủ mà bị nhiễu loạn. Cũng như vậy, với tâm lý tương tự, hành giả chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức. Khi thọ, tưởng, hành, thức biến động, hành giả cũng vì thế mà bị nhiễu loạn.

Ngược lại, khi hành giả không chấp thủ “Sắc là ngã”, “Ngã có sắc”, “Sắc trong ngã”, “Ngã trong sắc” thì khi sắc biến động, tâm của hành giả cũng không bị nhiễu loạn. Cũng tương tự như vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức, hành giả không chấp thủ và cũng không bị nhiễu loạn. Vì không bị nhiễu loạn nên không buồn phiền, đau khổ, lo lắng, cũng không vì chấp thủ mà sinh ra nhiễu loạn.

Kinh này bàn về “Không chấp thủ để chứng đắc Niết bàn” dựa trên các vấn đề sáu căn tiếp xúc với sáu cảnh, thành tựu thiền định và năm uẩn.

Đọc nhiều hơn

1. Trung Nikāya Pāli, Kinh Tổng Thuyết Và Biệt Thuyết, M.III.223 - 229, Majjhima Nikāya no.138, Uddesa-vibhaṅga Sutta.

2. Bản Hán dịch, Kinh Trung A Hàm, Kinh Phân Biệt Quán Pháp, T1.694b - 696b.

3. Bản dịch tiếng Anh, The Exposition of a Summary, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 1074~1079, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.

Hiểu biết nhiều hơn

Nội dung đoạn văn trích trên có những chỗ tương ứng với lời Tôn giả Mahācunda nói với Channa (S.IV.59/S35:87):

For one who is dependent, there is wavering;

For one who is indepent, there is no wavering.

When there is no wavering, there is tranquility;

When there is tranquility, there is no inclination;

When there is no inclination, there is no coming and going;

When there is no coming and going, there is no passing away and being reborn;

When there is no passing away and being reborn, there is neither here nor beyond nor in between the two.

Dịch:

Ai còn tham luyến thì còn có dao động;

Ai không còn tham luyến thì không dao động.

Khi không dao động thì được khinh an.

Khi được khinh an thì không có thiên chấp;

Khi không có thiên chấp thì không có đến và đi;

Khi không có đến và đi thì không có sự qua đời và được tái sinh;

Khi không có sự qua đời và được tái sinh thì không có đời này, đời sau và giữa hai đời.

Chúng ta cũng có thể tham khảo phần Udāna 81 (Kinh Phật Tự Thuyết hoặc Lời Cảm Hứng). Trước đoạn văn của Udāna có phần kinh văn về định vô sở duyên. Liệu đây có phải là trạng thái tâm cảnh của các bậc Thánh đã giải thoát chăng?

Kinh cần thảo luận tiếp theo là từ tuệ chứng đắc Niết bàn. Ở đây có hai kinh, Kinh Phân Biệt Giới (Kinh Dhātu-vibhaṅga) và Kinh Bất Động Lợi Ích - Kinh Tịnh Bất Động Đạo (Kinh Āṇañja-sappāya). Hai kinh này bàn về chứng nhập hiện pháp Niết bàn lần lượt từ thiền thứ tư và vô sở hữu xứ. Kinh điển từ tứ thiền bàn về hiện pháp Niết bàn có gần 20 kinh; kinh điển từ tứ xứ bàn về lậu tận chỉ có khoảng 5 - 6 kinh. Trong đó, giải thoát được đề cập đến trong Kinh Dhātu-vibhaṅga và Kinh Āṇañja-sappāya khá rõ ràng. Sau đây, chúng ta sẽ thảo luận việc chứng đắc Niết bàn từ hai kinh này.