Từ định thứ tám chuyển hướng chứng nhập vô tướng tam muội thực hiện phép quán
Trong định của bốn xứ, hết thảy đều là không, chỉ duy có sở duyên cảnh là bất không
Phương pháp tu quán để đạt đến Niết bàn được nhắc tới trong các kinh điển trên là quán một cách triệt để về bản chất của cảnh giới thiền định. Phương pháp tu quán trong Kinh Mahāmāluṅkya là quán triệt để bản chất của cảnh giới thiền định, tiếp đó, hướng tâm đến cảnh giới Niết bàn và chứng đắc Niết bàn. Trong Kinh Bát Thành Nhân lại nói rằng quán triệt để bản chất của cảnh giới thiền định để đạt đến lậu tận. Hai kinh này đều thống nhất nhận định rằng: trong hai định cuối cùng, hành giả không thể thực hiện phép quán, cần phải xuất định mới có thể thực hiện phép quán. Tiểu Kinh Không chúng ta thảo luận sau đây cũng có ý giống như vậy. Kinh này nói rằng: sau khi hành giả chứng nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, hướng đến chứng nhập định vô tướng tâm, tiếp đó mới có thể thực hiện phép quán và chứng đắc Niết bàn.
Tiểu Kinh Không (Cūḷa-suññata Sutta) của Trung Nikāya nói rõ hơn về chứng đắc hiện pháp Niết bàn trong đời này, cũng chính là từ phi tưởng phi phi tưởng xứ chuyển nhập định vô tướng tâm, tiến tới quán một cách triệt để bản chất của định vô tướng tâm và chứng đắc Niết bàn.
Tiểu Kinh Không nói về các hành giả tu đắc tứ xứ. Hành giả không đắm đuối với định bất động, tức là thiền thứ tư, mà chứng nhập không vô biên xứ; do không chìm đắm trong không vô biên xứ mà chứng nhập thức vô biên xứ, do không mải vui trong thức vô biên xứ mà chứng nhập vô sở hữu xứ, do không vui say với vô sở hữu xứ mà chứng nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, do không lưu luyến với phi tưởng phi phi tưởng xứ mà chuyển nhập định vô tướng tâm (animitta cetosamādhi). Sau đó, do quán một cách triệt để bản chất của định vô tướng tâm là do nhân duyên sinh, do ý thành tựu mà biết định này là vô thường, là đoạn diệt. Biết chân thực như vậy, thấy chân thực như vậy, tâm hành giả được giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, tiếp tục tự chứng đắc, tự biết rằng: “Sinh đã tận, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn đời sau nữa”.
Phương pháp quán mà kinh này nhắc đến “Do nhân duyên sinh, do ý thành tựu”, giống với Kinh Bát Thành Nhân ở đoạn trên; không thể thực hiện phép quán trong định thứ tám (Phi tưởng phi phi tưởng xứ) mà phải chuyển nhập định vô tướng tâm để thực hiện phép quán. Như vậy, kinh này cũng không ngoại lệ, cũng không thể thực hiện phép quán trong định thứ tám.
Điều đáng chú ý là trong Tiểu Kinh Không bản tiếng Pāli, từ phi tưởng phi phi tưởng xứ tiến nhập định vô tướng tâm và chứng đắc giải thoát, nhưng Tiểu Kinh Không trong bản Hán dịch thì lại từ vô sở hữu xứ tiến tới nhập định vô tướng tâm mà đạt đến giải thoát. Tuy giữa hai bản tiếng Pāli và Hán dịch có sự khác biệt, nhưng cả hai đều không nhắc đến định tưởng thọ diệt.

Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli, Tiểu Kinh Không, M.III.104 - 109, Majjhima Nikāya no.121 Cūḷasuññata Sutta.
2. Bản Hán dịch, Kinh Trung A Hàm, Tiểu Kinh Không, T1.73c~738a.
3. Bản dịch tiếng Anh, The Shorter Discourse on Voidness, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 965~970, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.