Thực hiện phép quán trong bảy định đầu sẽ đạt được cứu cánh trí
Có định hữu tưởng chính là có cứu cánh trí
Kinh Thiền Na (Jhāna Sutta) trong Tăng Chi Nikāya, Kinh Thất Giới trong Tương Ưng Nikāya (Satta-dhātu Sutta) và Kinh Thuyết trong Trung A Hàm đều nói rõ làm thế nào thực hiện phép quán trong định để thành tựu cứu cánh trí (aññā- paṭivedha, penetration of final knowledge) và đạt đến giải thoát, đồng thời giải thích vì sao không thể thực hiện được phép quán trong hai định cuối. Theo ghi chép trong Kinh Viễn Ly (Paviveka Sutta) của Tăng Chi Nikāya, hành giả không những thực hiện được phép quán trong định và đạt đến giải thoát mà còn có thể mệnh chung trong định của thiền thứ nhất và đạt được thành tựu, không còn quay lại thế gian nữa.
Về việc thực hiện phép quán trong định, điểm thống nhất giữa hai kinh Mahāmāluṅkya và Aṭṭhaka-nāgara là không liệt kê hai định cuối. Theo Kinh Bất Đoạn, Tôn giả Xá Lợi Phất thực hiện phép quán trong bảy định đầu, quán sự sinh khởi, an trú, đoạn diệt của từng pháp một và hai định cuối là thực hiện phép quán khi xuất định. Nguyên nhân chính được giải thích rõ ràng trong Kinh Thiền Na và Kinh Thuyết. Kinh Thiền Na là Đức Phật hỏi các Tỳ kheo liệu có biết làm thế nào dựa vào (nissaya) chín định để đắc lậu tận.
Phương pháp thực hiện phép quán trong bảy định đầu được nhắc đến ở kinh này cũng giống với phương pháp được nói đến trong Kinh Mahāmāluṅkya. Kinh Thiền Na giải thích rõ hơn hành giả khi chứng nhập định thứ tám và định thứ chín, sau khi xuất định mới thực hiện được phép quán và đắc cứu cánh trí. Cho dù các hành giả chứng nhập, an trú, xuất định ở định thứ tám và định thứ chín rất thành thục vẫn cần phải xuất định mới có thể thực hiện phép quán. Kinh Thuyết là kinh Đức Phật tự thuyết cho các Tỳ kheo về việc chứng nhập, an trú, ra khỏi bảy định đầu, quán trong định mà chứng đắc lậu tận. Nhưng riêng đối với hai định cuối, phải xuất định mới có thể thực hiện phép quán. Hai kinh trên đều thống nhất ở điểm này.


Kinh Thiền Na trong Tăng Chi Nikāya nói rõ rằng: Chỉ cần có định hữu tưởng thì có cứu cánh trí (Yāvatā saññā-samāpatti tāvatā aññā-paṭivedho). Kinh Thuyết trong Trung A Hàm Hán dịch cũng có câu văn tương tự: “Hữu tưởng hữu trí, tề thị đắc trí” (có tưởng thì có trí, cùng đạt đến trí). Hai kinh này không phải hai kinh tương ứng của nhau giữa bản tiếng Pāli và bản Hán dịch nhưng cách nói thì thống nhất. Chỉ cần là định hữu tưởng thì hành giả có thể thực hiện phép quán trong đó và đạt được cứu cánh trí, cũng tức là cứu cánh giải thoát. Nói cách khác, nếu là định vô tưởng thì hành giả không thể thực hiện phép quán trong đó, cũng không thể đạt được cứu cánh trí. Vậy thì những định nào là định hữu tưởng, những định nào là định vô tưởng?
Kinh Thất Giới trong Tương Ưng Nikāya cũng giải thích rõ rằng: Các định không vô biên xứ, thức vô biên xứ và vô sở hữu xứ đều thuộc định hữu tưởng (saññā-samāpatti). Định Phi tưởng phi phi tưởng xứ là thuộc định hành dư (saṇkhārā-vasesa samāpatti). Định tưởng thọ diệt là thuộc định diệt. Tương ứng với kinh này, Kinh số 456 Tạp A Hàm Hán dịch cũng có cách phân loại giống như vậy. Vì vậy, hai loại định cuối không thuộc định hữu tưởng. Hành giả chứng nhập vào hai định này không thể thực hiện phép quán, cũng không thể chứng đắc lậu tận.


Kinh Viễn Ly Pāli ghi chép có một vị đệ tử hàng Thanh văn chứng đắc quả vị Hữu lai, chứng nhập thiền thứ nhất. Trong thiền thứ nhất, vị đó mệnh chung và đoạn trừ các trói buộc (saṁyojana) có thể khiến mình bị đọa lạc trở lại thế gian này, cũng tức là vị đó chứng đắc quả vị Bất hoàn. Quan niệm cho rằng, thiền định có thể giúp hành giả sau khi mệnh chung tiến nhập lên cảnh giới cao hơn không chỉ được bảo lưu trong kinh điển Nikāya cổ mà còn được thể hiện trong chú sớ của Nikāya, giống như Phụ chú số 229 trong bản dịch tiếng Anh của Kinh Tương Ưng Nikāya do Tỳ kheo Bodhi dịch. Nhưng Thượng tọa bộ ở đời sau lại cho rằng, hành giả nhất định phải xuất định mới có thể mệnh chung, càng không thể nói đến việc có thể mệnh chung và đoạn trừ các trói buộc trong thiền định.
Đọc nhiều hơn
1. Kinh Tăng Chi Nikāya, Kinh Thiền Na, A.IV.422 - 426, Aṅguttara Nikāya, Jhāna Sutta.
1.1. Kinh này không có bản Hán dịch.
1.2. Bản dịch tiếng Anh, Musing, The Book of The Gradual Sayings, tập IV trang 284~286, E.M.Hare dịch, Oxford: PTS, 2001.
2. Tương Ưng Nikaya, Kinh Thất Giới, S.II.150 - 151, Saṁyutta Nikāya, Satta-dhātu Sutta.
2.1. Hán dịch, Tạp A Hàm, Kinh số 456, T2.116c~117a.
2.2. Bản dịch tiếng Anh, Seven Elements, The Connected Discourses of the Buddha, trang 634~635, Tỳ kheo Bodhi dịch, Boston: Wisdom, 2000.
3. Kinh này không có bản tiếng Pāli.
3.1. Kinh Trung A Hàm, Kinh Thuyết, T1. 716b~718b.
3.2. Kinh này không có bản dịch tiếng Anh.
4. Tăng Chi Nikaya, Kinh Viễn Ly, A.I.240 - 242 Aṅguttara Nikāya, Paviveka Sutta.
4.1. Kinh này không có bản Hán dịch.
4.2. Bản dịch tiếng Anh, Aloofness, The Book of The Gradual Sayings, tập I trang 220~222, F.L. Woodward dịch, Oxford: PTS, 2000.