Biết khổ, biết lậu thành A la hán
Bàn về Niết bàn từ việc biết Tứ thánh đế, biết Tam lậu đoạn tận và đạt Giải thoát trí
Về phương thức diễn đạt thứ nhất, trong Kinh Sợ Hãi Và Khiếp Đảm tiếng Pāli, Đức Phật hồi tưởng lại quá trình tu chứng của mình. Sau khi chứng đắc thiền thứ tư, hành giả Gotama biết như thực về khổ, nguồn gốc của khổ, diệt khổ, con đường diệt khổ; biết như thực về lậu, nguồn gốc của lậu, diệt lậu và con đường diệt lậu; vì vậy, hành giả Gotama đoạn trừ dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu, tự mình biết rằng đây là đời cuối cùng, không còn tái sinh nữa. Kinh trong Tăng Nhất A Hàm, tương ứng với Kinh Sợ Hãi Và Khiếp Đảm tiếng Pāli, nói rằng:
“Chứng nhập thiền thứ nhất... chứng nhập thiền thứ tư... Ta lại dùng tâm tam muội thanh tịnh không tỳ vết, cũng không kết sử, tâm ý được định, được không sợ hãi, được dứt tâm lậu, cũng biết khổ này như thật chẳng dối. Ngay khi ấy, Ta được tâm này, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, tâm được giải thoát, liền được trí giải thoát. Sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh, như thật mà biết. Ðó là, này Phạm Chí! Ta cuối đêm được minh thứ ba không u tối nữa”1.
1 Đại Chánh Tạng tập 2, trang 665c~666b. Người dịch trích từ bản dịch của Thích Thanh Từ: Kinh Tăng Nhất A Hàm, tập 2, phẩm 31, Phẩm Tăng Thượng; NXB Tôn giáo, Hà Nội; năm 2005, trang 153.
Kinh Song Tầm tiếng Pāli cũng ghi chép việc Đức Phật hồi tưởng lại quá trình tu chứng của mình. Kinh Niệm trong Trung A Hàm, tương ứng với Kinh Song Tầm tiếng Pāli, nói rằng:
“Chứng tứ thiền, thành tựu an trụ. Như vậy, Tỳ kheo định tâm, thanh tịnh, không ô uế, không phiền não, nhu nhuyến, khéo an trụ, chứng đắc tâm bất động, hướng đến quả vị lậu tận, tự thân chứng ngộ trí thông, liền biết như thật rằng: ‘Đây là khổ’, ‘Đây là khổ tập’, ‘Đây là khổ diệt’, ‘Đây là khổ diệt đạo’. Cũng biết như thật đây là lậu diệt và đây là lậu diệt đạo. Tỳ kheo đã biết như vậy, thấy như vậy rồi thì tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu, tâm giải thoát vô minh lậu. Giải thoát rồi biết mình đã giải thoát, biết đúng như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’”1.
1 Đại Chánh Tạng, tập 1, trang 444c. Người dịch trích từ bản dịch của Tuệ Sỹ; Kinh Trung A Hàm, tập 1, Kinh Niệm, NXB Tôn giáo, Hà Nội; năm 2008, trang 777.
Hai kinh này đều là những kinh nghiệm của Đức Phật, còn Đức Phật truyền dạy cho đệ tử thì có hai kinh dưới đây: Kinh Mã Ấp trong Trung A Hàm (tương đương với Đại Kinh Xóm Ngựa trong trung Nikāya) nói rằng:
“Rồi ly dục, ly pháp ác bất thiện, cho đến chứng đắc tứ thiền, thành tựu an trụ. Tỳ kheo với định tâm như vậy, thanh tịnh, không ô uế, không phiền nhiệt, nhu nhuyến, khéo an trụ, chứng đắc tâm bất động, bèn hướng đến sự tác chứng lậu tận trí thông. Vị ấy liền biết như thật rằng, ‘Đây là khổ’, ‘Đây là khổ tập’, ‘Đây là khổ diệt’, ‘Đây là khổ diệt đạo’. Cũng biết như thật ‘Đây là Lậu’, ‘Đây là Lậu tập’, ‘Đây là Lậu diệt’, ‘Đây là Lậu diệt đạo’. Tỳ kheo ấy đã biết như vậy, thấy như vậy rồi, tâm giải thoát dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Giải thoát rồi liền biết là mình đã giải thoát, biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Ta nói vị ấy là Sa môn, là Bà la môn, là Thánh, là Tịnh dục”1.
1 Đại Chánh Tạng tập 1, trang 725b. Người dịch trích từ bản dịch của Tuệ Sỹ, Kinh Trung A Hàm Tập 2, 182. Kinh Mã Ấp (I), NXB: Tôn giáo, Hà Nội, 2008, Trang 278.
Đức Phật thuyết pháp cho các Tỳ kheo, Ngài hồi tưởng lại cuộc đối thoại giữa mình và Nigantha về việc đạt đến lậu tận để chứng đắc giải thoát. Điều này được ghi chép trong Kinh Devadaha tiếng Pāli và kinh Hán dịch tương ứng với kinh này, Kinh Ni Kiền trong Trung A Hàm. Kinh Ni Kiền ghi chép như sau:
“Vị ấy đã đoạn trừ năm triền cái vốn làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, ly dục, ly bất thiện pháp, cho đến chứng đệ tứ thiền, thành tựu và an trụ. Vị ấy đạt được tâm thanh tịnh, không nhơ uế và không phiền nhọc như vậy, nhu nhuyến và khéo léo an trụ, chứng đắc tâm bất động, hướng thẳng đến lậu tận trí thông. Vị ấy biết như thật rằng: “Đây là khổ”, “đây là khổ tập”, “đây là khổ diệt”, và biết như thật “đây là khổ diệt đạo”. Cũng biết như thật rằng: “Đây là lậu”, “đây là lậu tập”, “đây là lậu diệt”, và biết như thật “đây là lậu diệt đạo”. Vị ấy biết như vậy, thấy như vậy thì tâm giải thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, tâm giải thoát vô minh lậu. Giải thoát rồi liền biết là giải thoát, biết như thật rằng: “Sự sanh đã hết, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa”1.
1 Đại Chánh Tạng tập 1, trang 444c. Người dịch trích từ bản dịch của Tuệ Sỹ, Kinh Trung A Hàm, tập 1, phẩm Nghiệp Tương Ưng, Kinh Ni Kiền; NXB Tôn giáo, Hà Nội, năm 2008, trang 133.
Các kinh điển bàn về lậu tận này đều có mấy điểm chung: chứng đắc thiền thứ tư; chứng đắc định bất động; biết khổ, nguồn gốc của khổ, diệt khổ, con đường diệt khổ; biết lậu, nguồn gốc của lậu, diệt lậu, con đường diệt lậu và chứng đắc giải thoát tri kiến. Ở đây, ta có thể tiếp tục đi sâu thảo luận hai điểm sau: biết như thực về khổ, nguồn gốc của khổ, diệt khổ, con đường diệt khổ và biết như thực về lậu, nguồn gốc của lậu, diệt lậu, con đường diệt lậu. Nói cách khác, đối với cảnh giới hiện tại, đặc biệt chỉ cảnh giới trong thiền định, hành giả biết như thực về sinh, trụ, dị, diệt mà tâm không khởi lên một chút tơ hào chấp trước nào, nghĩa là chứng đắc lậu tận.
Điều này cũng có những nét tương đồng với phương thức diễn đạt thứ hai về chứng nhập Niết bàn được thảo luận dưới đây. Phân tích, quan sát dựa trên sự kết hợp hai phương thức diễn đạt này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về giải thoát cứu cánh, chứng nhập hiện pháp Niết bàn. Nhưng vẫn còn một vài vấn đề, vậy rốt cuộc cái gì gọi là lậu? Vì sao sau khi quán một cách triệt để khổ, tập, diệt, đạo lại chứng đắc lậu tận?
