• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Giải mã thiền định và giải thoát - Chìa khóa chứng ngộ của Đức Phật
  3. Trang 51

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 50
  • 51
  • 52
  • More pages
  • 66
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 50
  • 51
  • 52
  • More pages
  • 66
  • Sau

II. Phương thức diễn đạt thứ hai về chứng nhập Niết bàn

Không hành, không ý hướng, an trú trong hiện pháp Niết bàn

Bàn luận về Niết bàn từ định

Loại phương thức diễn đạt thứ hai về chứng đắc hiện pháp Niết bàn trong thiền thứ tư được ghi chép trong Kinh Phân Biệt Giới tiếng Pāli. Hành giả chứng nhập thiền thứ tư, từ đó tiến thêm một bước, xả bỏ cảm thọ bất khổ bất lạc và sẽ tiến vào một cảnh giới khác, một cảnh giới thiền định chỉ có “xả” (upekkha). Tâm lúc này nhu nhuyến (mudu), dễ dàng sử dụng (kammañña), phát sáng (pabhassarā).

Nhu nhuyến (mudu) có thể dịch ý là hun đúc, rèn, có tính triển khai, hiền dịu, dễ dàng huấn luyện, dễ dàng sử dụng (kammañña), dễ dàng thao tác. Nói cách khác, khi tâm được thanh tịnh đến mức độ này, không có các cảm thọ khổ, lạc, bất khổ bất lạc; chỉ còn lại xả, tâm đó vô cùng mềm mại, có thể vận dụng vào bất cứ việc gì.

Đức Phật lấy một ví dụ để giải thích quá trình tịnh hóa của tâm lúc này. Cũng giống như một người thợ kim hoàn khi chuẩn bị lò đúc, đun nóng miệng lò, dùng kìm kẹp chặt vàng cho vào lò. Anh ta có lúc phải thổi lò, có lúc rẩy nước lạnh, có lúc lại lặng lẽ quan sát. Vàng này sẽ được rèn đúc, tinh luyện, hoàn toàn thuần tịnh, không có tì vết, không còn cặn bã, cho đến khi có thể rèn đúc, dễ thao tác, phát sáng. Sau đó, thợ kim hoàn có thể gia công vàng này thành bất kỳ đồ trang sức nào, như làm dây chuyền, hoa tai, vòng cổ, trang sức đội đầu. Người thợ kim hoàn có thể thỏa sức sáng tạo, chế tác tùy theo ý muốn.

Cũng tương tự như vậy, khi chỉ còn “xả” nhu nhuyến, dễ sử dụng, phát sáng, nếu hành giả dẫn dắt (upasaṁhareyya) tâm mình hướng tới không vô biên xứ; trau dồi, bồi dưỡng tâm mình như vậy, xả của hành giả sẽ an trú ở đây, chấp trước vào đây, vị ấy sẽ an trú trong đó một thời gian dài. Cũng có thể nói vì vị đó chấp vào không vô biên xứ, sau khi mệnh chung sẽ tái sinh vào không vô biên xứ. Tuổi thọ của chúng sinh hữu tình trong không vô biên xứ rất dài, nghe nói là hai tỷ vạn năm. Tương tự như vậy, nếu hành giả dẫn dắt tâm mình hướng tới thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, hoặc phi tưởng phi phi tưởng xứ, vì xả của vị đó còn chấp trước vào các cảnh giới thiền định này, trong tương lai vị đó sẽ tái sinh vào vô sắc giới tương ứng. Tuổi thọ của chúng sinh hữu tình thuộc ba xứ trên lần lượt là bốn tỷ, sáu tỷ, tám tỷ bốn trăm triệu vạn năm.

Lúc này, ngoài việc hướng tâm đến tứ xứ và chứng nhập tứ vô sắc định, hành giả cũng có thể dẫn dắt tâm để thu hoạch các pháp chưa từng được nghe, chẳng hạn như hiểu về các đời quá khứ của mình, nghĩa là chứng đắc túc mệnh tri; hướng đến hiểu được sự sinh diệt của chúng sinh hữu tình, tức là chứng đắc hữu tình sinh tử tri; hiểu được người khác dấy lên tâm gì, khởi lên niệm gì, cũng chính là tha tâm tri (Tha tâm thông). Thao tác như vậy và đạt được các loại tri thức mới, đây chính là một trong năm loại thần thông.

Đức Phật nói, nếu hành giả có thể hiểu được tính nhân duyên của các thành tựu này, sự nguy hiểm của các chấp trước này, vị đó sẽ không tìm cầu hữu (bhava) hoặc phi hữu (vibhava/không phải hữu). Tìm cầu hữu là chỉ hành giả tu tập tứ xứ, hướng tâm đến tứ xứ, hy vọng có được sự tồn tại vĩnh hằng. Tìm cầu phi hữu là chỉ tu trì tứ xứ, hướng tâm đến tứ xứ, hy vọng đoạn diệt mãi mãi, không còn tồn tại. Đây là hai loại quan điểm cực đoan mà hai phái ngoại đạo luôn bám víu vào: một phái cho rằng chứng đắc tứ xứ, sau khi mệnh chung thì có thể tồn tại vĩnh hằng; một phái khác lại cho rằng chứng đắc tứ xứ, sau khi mệnh chung có thể vĩnh viễn đoạn diệt, không tồn tại, như Kinh Phạm Võng và Kinh Năm Ba ở đoạn trên đã ghi chép. Sau khi hiểu được tính nhân duyên của các thành tựu này, đệ tử Phật sẽ không cố gắng tìm cầu nó.

Đức Phật tiếp tục giải thích, vì hiểu rõ như vậy, hành giả không tìm cầu hữu hoặc phi hữu trong thiền thứ tư cho nên tâm không có các hành (na abhisaṅkharoti) và các ý hướng (na abhisañcetayati); vì tâm không có các hành và các ý hướng nên vị đó không có một mảy may chấp trước với thế gian này; vì không mảy may chấp trước với thế gian này nên không bị nhiễu loạn (na paritassati); vì không nhiễu loạn nên chứng nhập Niết bàn (paccattaṁ yeva parinibbāyati). Vị đó hiểu rõ rằng: “Sinh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa”. Về phương thức diễn đạt thứ hai này, chúng ta có thể tham khảo Kinh Tổng Thuyết Và Biệt Thuyết đã thảo luận ở đoạn trên.

a157

有行 (abhisaṅkharoti/các hành)

意向 (abhisañcetayati/ý hướng)

無行 (na abhisaṅkharoti/không có hành)

無意向 (na abhisañcetayati/không có ý hướng)