Suối nguồn hạnh phúc và vui vẻ của kiếp này, kiếp sau
Phân tích giáo lý của các giáo phái thời Đức Phật
Kinh Apaṇṇaka là kinh Đức Phật hướng dẫn các cư sĩ Bà la môn làm thế nào để cuộc sống được hạnh phúc và vui vẻ dài lâu. Trong đó, nội dung chỉ nói đến tứ thiền, tam minh và giải thoát tri kiến, không hề đề cập đến tứ vô sắc định và tưởng thọ diệt định.
Kinh này là Đức Phật tự thuyết pháp cho một nhóm cư sĩ Bà la môn. Có một nhóm lớn các Tỳ kheo đi theo Thế Tôn du hóa đến một thôn Bà la môn ở Kosala, thôn Sa La. Thôn này gần một cánh rừng rậm. Trong rừng có rất nhiều hành giả đang tu tập, mỗi người đều có những lý lẽ, hiểu biết của riêng mình, các bên tranh luận cho đến khi đánh bại được đối phương mới thôi. Nhờ vậy, các cư sĩ cũng được nghe rất nhiều các kiến giải, lý luận khác nhau nhưng chưa thấy hợp lý và trong tâm sinh nghi hoặc, không có vị tu sĩ nào khiến họ tin tưởng.
Đức Phật chủ động khai thị cho họ phương pháp không nghi ngờ, “không có gì chuyển hướng” (apaṇṇaka dhamma). Ngài an ủi họ rằng phương pháp này có thể đem đến hạnh phúc và niềm an lạc lâu dài (dīgha-rattaṃ hitāya sukhāya). Trước khi thuyết giảng phương pháp không nghi ngờ này, Đức Phật phân tích cho họ ưu, khuyết điểm của các tư tưởng, kiến giải, phương pháp tu tập cũng như quả báo của các đạo khác.
Đức Phật giới thiệu thế gian có bốn loại người: người tự hành khổ mình, người hành khổ người khác, người vừa hành khổ mình vừa hành khổ người khác, người không hành khổ mình cũng không hành khổ người khác. Đức Phật cũng lần lượt nói về thứ tự tu học của bốn loại người này (giống với Kinh Kandaraka ghi chép). Các cư sĩ Bà la môn này cũng xin quy y theo Đức Phật.
Thứ bậc tu học của loại người thứ tư, đệ tử của Đức Phật: chỉ có tứ thiền, tam minh và giải thoát tri kiến, không hề có tứ vô sắc định và tưởng thọ diệt định.
Hai kinh trên đều có liên quan đến Bà la môn. Các kinh dưới đây lại đề cập đến các du phương tăng (các ẩn sĩ). Từ kinh văn chúng ta có thể biết được đối tượng nghe pháp trong hai kinh này không phải là đệ tử của Đức Phật, không phải là các tăng lữ và các hành giả tu thiền mà là tín đồ của các đạo khác.
Đức Phật nói với họ về đạo giải thoát rốt ráo an lạc, cũng không nhắc đến tứ vô sắc định và tưởng thọ diệt định. Hai kinh này một lần nữa thể hiện vai trò của hai loại thiền định này trên con đường giải thoát của Phật giáo, chúng không mang tính tất yếu.
Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli - Kinh Không Gì Chuyển Hướng, M.I.400~413, Majjhima Nikāya no.60 Apaṇṇaka Sutta.
2. Kinh này không có bản Hán dịch.
3. Bản dịch tiếng Anh, The Incontrovertible Teaching, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 506~519, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.
Hiểu biết nhiều hơn
1. Ở đây đề cập đến năm loại luận thuyết của ngoại đạo. Ba loại trước, kết cấu có thể chia làm ba phần:
- Quan điểm của thuyết đó.
- Phương pháp hành trì.
- Kết quả.
Ở phần kết của mỗi loại luận thuyết, Thế Tôn khuyên nên tin theo loại luận thuyết nào là phù hợp nhất.