Con đường hướng đến thế giới Cực lạc và thế giới Cực lạc
Đối với các đạo khác, tam thiền là thế giới Cực lạc
Đối với Phật giáo, tam thiền là con đường dẫn đến thế giới Cực lạc
Đây là một bài kinh vô cùng hấp dẫn. Kinh không chỉ vạch ra tính mơ hồ, không có thứ lớp và không rốt ráo trong phương pháp tu tập của đạo khác mà còn thể hiện tầng bậc tu tập rõ ràng và thành tựu rốt ráo của Đức Phật. Điểm quan trọng hơn cả, cũng là chủ đề chính mà sách này đưa ra thảo luận, đó là: kinh này cho thấy sự khác biệt trong nhận thức về tứ thiền giữa Đức Phật và các đạo khác.
Udāyi (tiếng Hán cổ dịch là Ưu Đà Di hoặc Uất Bà Di) tố giác với Đức Phật là có một vị tự xưng đã đạt đến Nhất thiết trí nhưng lại không trả lời được câu hỏi của ông ta, ngược lại còn né tránh, trả lời ra ngoài vấn đề, thậm chí thẹn quá hóa giận. Người đó là Nigaṇṭha. Nigaṇṭha tự tuyên bố rằng, trí tuệ của ông ta hiển hiện không gián đoạn trong tất cả thời gian và không gian.
Đức Phật khai thị cho Udāyi. Nếu một người có thể biết rất nhiều các kiếp quá khứ, vậy thì, dù người khác hỏi ông ta hay ông ta hỏi người khác về các việc trong quá khứ thì ông ta đều có thể trả lời đối phương. Nếu một người có thể dùng thiên nhãn thuần tịnh, siêu việt hơn người nhìn thấy sự sống chết của chúng sinh, vậy thì, dù người khác hỏi ông ta hay ông ta hỏi người khác về chuyện tương lai, ông ta đều có thể trả lời đối phương.
Ý Đức Phật muốn chỉ Nigaṇṭha không biết các đời quá khứ cũng không biết các đời tương lai mà lại tự xưng là có thể biết hết các pháp trong tất cả thời gian và không gian. Đoạn này cũng ám chỉ cần phải chứng đắc tứ thiền thì mới có năng lực biết rõ quá khứ và nhìn thấu tương lai. Hai loại năng lực này là túc mệnh minh và hữu tình sinh tử minh, là năng lực do thiền thứ tư khởi phát.
Đức Phật muốn hướng dẫn Udāyi hiểu được pháp duyên khởi về sinh tử dù là trong quá khứ hay tương lai. Hiện tại, Đức Phật dạy cho Udāyi pháp duyên khởi. Đó chính là:
“Cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt”.
Imasmiṁ sati, idaṁ hoti; imass’ uppādā idaṁ upapajjati;
Imasmiṁ asati, idaṁ na hoti; imassa nirodhā imaṁ nirujjhati.
Udāyi trả lời rằng những gì ông ta đã trải qua ở đời này đều không thể nhớ rõ từng việc một, huống chi là rất nhiều việc trong đời trước; ngay đến con yêu tinh đất bùn 泥妖精 (paṁsu-pisācaka) ông ta còn không nhìn thấy được chứ đừng nói đến việc sống chết của chúng sinh; pháp duyên khởi đối với ông ta lại càng mơ hồ không rõ ràng (bhiyyoso- mattāya na pakkhāya-ti).
Udāyi đề nghị Đức Phật đưa ra các câu hỏi về giáo nghĩa của thầy ông ta để ông ta có thể trả lời khiến cho Đức Phật hài lòng.
Đức Phật liền hỏi: “Giáo nghĩa của thầy ông là gì?”
Udāyi đáp: “Giáo lý của thầy tôi có thể nói như thế này: Điều này là sáng tỏ nhất, điều này là sáng tỏ nhất! (Ayaṁ paramo vaṇṇo)”.
“Sáng tỏ nhất rốt cục là cái gì?” Đức Phật lại hỏi.
“Thế Tôn, ánh sáng đó là sáng tỏ nhất, không có gì có thể sáng hơn”.
“Này Udāyi, ông có thể lặp đi lặp lại không ngừng rằng: “Ánh sáng đó là sáng tỏ nhất, không có gì có thể sáng hơn”, nhưng ông vẫn chưa nói rốt cuộc nó là cái gì?”
Thế Tôn lấy một ví dụ: Có một chàng trai nói rằng mình yêu cô gái xinh đẹp nhất vương quốc đó. Khi người khác hỏi anh ta rằng: Cô gái đó thuộc giai cấp Thánh nhân chăng? Hay giai cấp Bà la môn? Hay giai cấp thương nhân? Hay giai cấp lao động? Anh ta không biết. Người ta lại hỏi: Thế cô gái đó tên là gì? Họ gì? Cao hay thấp? Béo hay gầy? Màu da đen, nâu hay vàng ánh kim? Ở thành phố nào, làng xóm nào? Anh ta đều không biết. Anh ta yêu một cô gái chưa từng gặp mặt? Anh ta trả lời: “Đúng vậy”.
“Udāyi, liệu có phải anh chàng này chỉ nói suông chăng?”
“Thưa Thế Tôn, đúng vậy”.
“Udāyi, vậy thì cũng giống như ông nói: Ánh sáng đó là sáng tỏ nhất, không có cái gì sáng hơn, ông vẫn chưa nói rõ đó là cái gì?”
Lúc đó, Udāyi lấy một ví dụ để giải thích. Ông ta nói ánh sáng đó cũng giống như ánh sáng của viên ngọc lục bảo. Đức Phật lại hỏi: “Vậy, ánh sáng của đom đóm và viên ngọc lục bảo thì cái nào sáng hơn?” Udāyi đáp: “Đương nhiên là ánh sáng của con đom đóm sáng hơn”. Đức Phật lại lấy ví dụ về ánh sáng của đèn dầu, của ngọn đuốc lớn, của sao Mai lúc bình minh, của Mặt Trăng vào đêm trăng tròn, của Mặt Trời vào lúc giữa trưa, ánh sáng của chư Thiên… cái nào sáng hơn cái nào? Đương nhiên, sau khi lần lượt so sánh những loại ánh sáng này với nhau, Đức Phật lấy các ví dụ này để đả phá sự tin tưởng sai lầm của Udāyi. Lúc đó, Udāyi mới bừng tỉnh, phát giác ra giáo pháp của giáo phái mình trống rỗng, vô nghĩa. Ông thừa nhận mình đã tin tưởng mù quáng vào giáo pháp trống rỗng này.
Không chỉ dừng lại ở đó, Đức Phật lại hỏi Udāyi: Có thế giới Cực lạc chăng (ekanta sukha loka)? Có con đường đưa đến thế giới Cực lạc chăng? Udāyi trả lời: Thầy của ông ta dạy rằng: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và tu khổ hạnh là con đường dẫn đến thế giới Cực lạc. Đức Phật khẳng định: có người không sát sinh, thậm chí họ còn tu khổ hạnh, nhưng họ vẫn có khổ thọ và lạc thọ; không sát sinh, thậm chí tu khổ hạnh mà vẫn còn mang đến khổ thọ và lạc thọ, vậy thì rõ ràng đây không phải là con đường dẫn đến thế giới Cực lạc. Udāyi hoát nhiên đại ngộ, phát giác ra giáo pháp của giáo phái mình trống rỗng, vô nghĩa.
Vậy, con đường dẫn đến thế giới Cực lạc là như thế nào? Udāyi lại hỏi Đức Phật. Đức Phật nói: lìa dục, lìa các pháp ác, bất thiện, Tỳ kheo chứng nhập thiền thứ nhất cho đến chứng nhập thiền thứ ba là con đường dẫn đến (sacchikiriyāya/chứng nhập) thế giới Cực lạc. Udāyi không đồng ý, ông ta cho rằng thiền thứ ba đã là thế giới Cực lạc rồi. Thế Tôn một lần nữa khẳng định từ thiền thứ nhất đến thiền thứ ba chỉ là con đường dẫn đến thế giới Cực lạc. Đến đây, ta thấy sự khác biệt trong nhận định về bốn loại thiền của Thế Tôn và ngoại đạo đã rất rõ ràng.
Như vậy, cũng có thể xác định thiền không phải chỉ có duy nhất Đức Phật truyền dạy mà các đạo khác cũng biết và tu trì. Không chỉ Udāyi, thậm chí ngay cả những bạn đồng tu cũng kêu than rằng nhận thức của họ có hạn, không biết lại còn có một cảnh giới cao hơn thiền thứ ba.
Udāyi hỏi: Vậy, thế giới Cực lạc rốt cuộc là cảnh giới như thế nào? Đức Phật nói rằng: chứng nhập thiền thứ tư, có thể ở cùng (cộng trú) với chư Thiên trong thế giới Cực lạc này, cùng nói chuyện, cùng tranh luận, đó mới là đến được thế giới Cực lạc.
Đoạn đối thoại sau đây rất quan trọng, vì nó khiến chúng ta hiểu rõ vai trò của tứ thiền trên con đường giải thoát. Udāyi rất vui mừng, phấn khởi cho rằng đây chính là mục tiêu cuối cùng trong việc xuất gia, tu tập phạm hạnh của các Tỳ kheo đi theo Đức Phật. Thế Tôn trả lời rằng: không phải vậy, chứng nhập vào thế giới Cực lạc không phải là mục đích của việc tu tập phạm hạnh.
Tu tập phạm hạnh không những cần chứng đắc tứ thiền mà còn cần phải chứng đắc túc mệnh tri, hữu tình sinh tử tri, lậu tận tri và giải thoát tri kiến. Những pháp này đều rất thiêng liêng (uttaritarā), thù thắng (paṇītarā). Các Tỳ kheo đi theo Đức Phật tu tập phạm hạnh cần chứng ngộ (sacchikiriyāhetu) các pháp này.
Trong kinh này, cuộc đối thoại giữa Đức Phật và Udāyi thể hiện rõ rằng: tuy các đạo khác cũng tu tập thiền (jhāna) nhưng họ lại không hiểu rõ tầng bậc cũng như bản chất của nó. Đức Phật không những hiểu thấu bản chất của thiền, các tầng bậc tu tập của nó mà còn có thể hướng dẫn các đệ tử tu học, thậm chí Ngài còn có thể vận dụng tiềm năng của thiền để thành tựu giải thoát rốt ráo ngay trong đời này.
Có học giả phương Tây cho rằng Phật giáo đã tiếp thu thiền từ đạo khác; cũng có học giả đưa ra quan điểm ngược lại, cho rằng thiền thuần túy là sở hữu của đạo Phật. Từ manh mối mà kinh này cung cấp, chúng ta thấy rằng cả hai quan điểm trên đều không đủ cơ sở căn cứ để lập luận, không thể làm người ta tin phục.
Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli, Kinh Cūḷa-sakuludāyi, M.II.29~39, Majjhima Nikāya no.79 Cūḷa-sakuludāyi Sutta.
2. Bản Hán dịch, Kinh Trung A Hàm, phẩm Bô Lợi Đa (晡利多品), Kinh Tiễn Mao T01.783c~786c.
3. Bản dịch tiếng Anh, The Shorter Discourse to Sakuludāyin, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 654~662, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.