Người có thể dạy bạn con đường dẫn đến Cực lạc mới xứng đáng được bạn tôn kính
Thế Tôn có thể truyền dạy các loại thiền định
Phần bàn luận về vô sắc định của kinh này không hề nhắc đến giải thoát và lậu tận, ngược lại, chỉ đề cập đến phần kinh văn về tứ thiền, sau đó mới nói đến tứ thiền, tam minh. Trong kinh đề cập đến các loại thiền định mà Đức Phật có thể truyền dạy, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến các đệ tử cung kính Thế Tôn.
Nguồn gốc kinh là vào rạng sáng, sau khi tọa thiền xong, Đức Phật nghĩ rằng lúc này ôm bình bát đi khất thực thì quá sớm, nên Ngài đi đến khu rừng Khổng Tước, nơi có các ẩn sĩ tụ tập, để ghé thăm Udāyi. Sáng sớm, Udāyi cùng các ẩn sĩ đang lớn tiếng tranh luận về chủ đề vị lãnh đạo của giáo phái nào được các đệ tử cung kính cúng dường, các đệ tử tin phục thủ lĩnh của họ như thế nào. Kinh này nhắc đến sáu vị lãnh tụ của các đạo khác. Dưới đây liệt kê các tên được dịch trong kinh điển Hán dịch:
Udāyi chế giễu các vị thầy đạo khác không hề nhận được sự cung kính, tôn trọng đáng có. Khi các vị này thuyết pháp, đệ tử họ vẫn nói chuyện, cãi nhau, thậm chí còn cãi lời, chửi thầy. Thế nhưng, các đệ tử của Đức Phật lại hết sức cung kính, tôn trọng Ngài. Khi Đức Phật thuyết pháp cho hàng trăm đệ tử, nếu ai phát ra tiếng ho rất khẽ hoặc tiếng động nhẹ cũng bị các bạn đồng tu quở trách.
Đức Phật không để ý đến những lời khen ngợi của Udāyi, ngược lại, dường như Ngài còn biết được suy nghĩ trong lòng của vị ẩn sĩ này. Ngài liền dùng một đoạn đối thoại để đính chính lời của anh ta. Đức Phật hỏi: “Này Udāyi, ông cho rằng tôi có bao nhiêu đức hạnh đáng được các đệ tử cung kính như vậy?” Udāyi liền nói, Ngài có năm đức hạnh khiến các đệ tử hết mực cung kính tôn trọng:
- Đức Phật ăn ít, cũng khen ngợi hạnh ăn ít.
- Đức Phật hài lòng với bất cứ loại áo cà sa nào, cũng ca ngợi hạnh biết đủ với bất cứ loại y phục nào.
- Đức Phật biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào.
- Đức Phật biết đủ với bất cứ chỗ nghỉ ngơi nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ chỗ nghỉ ngơi nào.
- Đức Phật biết ẩn cư, độc cư và cũng tán thán hạnh ẩn cư, độc cư.
Đức Phật phân tích rằng: nếu các đệ tử thực sự vì năm đức này mà cung kính, tôn trọng Ngài thì có rất nhiều đệ tử không cung kính, tôn trọng Ngài, vì trên thực tế, những gì Đức Phật làm có chút khác biệt so với những gì các đệ tử thực hành. Xét về năm đức như: lượng thức ăn, áo cà sa, ăn bằng bình bát, chỗ ở và việc sống ẩn cư một mình, Đức Phật và các đệ tử có sự khác biệt rất lớn:
Các đệ tử không vì những điều khác biệt này mà không tôn kính Đức Phật. Vậy thì lý do các đệ tử tôn kính Đức Phật là gì? Thế Tôn được các đệ tử cung kính như vậy là vì năm đức hạnh, cũng có nghĩa là Thế Tôn có thể dạy các đệ tử Tăng thượng giới, Thù thắng tri kiến, Tăng thượng tuệ, Tứ thánh đế và tu tập các loại thiền định, như hình vẽ sau thể hiện:
Tăng thượng giới (adhi-sīla): giới vô thượng, thành tựu giới uẩn tối thượng.
Thù thắng tri kiến (abhikkanta ñāṇa-dassana): tri kiến siêu việt, vô thượng tri kiến, tri kiến vi diệu.
Tăng thượng tuệ (adhi-paññā): vô thượng trí tuệ, thành tựu tăng trưởng trí tuệ.
Truyền dạy Tứ thánh đế (ariya-sacca).
Bát giải thoát (vimokha): tám giải thoát.
Bát thắng xứ (abhibhāyatana): tám thắng xứ.
Thập xứ (kasiṇa): mười biến xứ.
Biến hóa thân (mano-maya).
Tuy kinh này có nhắc đến tứ vô sắc định, nghĩa là một trong những loại thiền định mà Như Lai có thể truyền dạy, nhưng các kinh văn có liên quan không tiếp tục đề cập đến giải thoát rốt ráo. Kinh này đề cập đến vô sắc định trước, sau đó mới nói đến tứ thiền và các loại thần thông, tiếp ngay sau đó là đề cập đến lậu tận thông.
Thứ tự trong kinh văn này thể hiện Đức Phật có thể hướng dẫn tu học vô sắc định, thậm chí là các phương pháp thiền định tương thông với phương pháp tu hành của ngoại đạo; nhưng điều đó không thể hiện rằng: muốn chứng đắc giải thoát rốt ráo thì bắt buộc phải tu tập các phương pháp thiền khác như tứ vô sắc định.
Đức Phật có thể hướng dẫn đệ tử các phương pháp tu thiền, đó là nguyên nhân các đệ tử cung kính (sakkaronti), tôn trọng (garūkaronti), kính lễ (mānenti), cúng dường (pūjenti), gần gũi (upanissāya viharanti) Đức Phật.
Đọc nhiều hơn
1. Trung Nikāya Pāli, Kinh Mahā-sakuludāyi, M.III.1~22, Majjhima Nikāya no.77 Mahā-sakuludāyi Sutta.
2. Bản Hán dịch, Kinh Trung A Hàm, phẩm Bô Lợi Đa, Kinh Tiễn Mao, T01.781b~783b.
3. Bản dịch tiếng Anh, The Greater Discourse to Sakuludāyin, The Middle Length Discourses of the Buddha, trang 629~647, Tỳ kheo Ñāṇamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, Sri Lanka: BPS, 1995.