“Cô nói tiếng Nga ư?” Gibson hỏi khi họ đã ngồi an toàn trong xe tải.
“Anh không nói sao?” Cô nhìn anh chằm chằm một hồi lâu. Khóe miệng cô nhếch lên như thể định nở một nụ cười.
“Tôi nghĩ anh ta sẽ nổ tung đầu lên mất.” “Chúng ta chuồn thôi trước khi anh ta đổi ý.”
Đó nghe có vẻ là một ý tưởng hay. Gibson lùi chiếc xe lại rồi phóng đi. Trung tâm Điều hành Không lưu sân bay Dulles và Nhà chứa máy bay Số Sáu của Titus Eskridge ở mãi tận phía bên kia của sân bay, đi qua khu vực của Tyner Aviation. Trong lúc Gibson lái xe trở lại con đường cũ mà anh đã đến lúc trước, Jenn biến mất ở phía sau và mở một cái vali ra. Cô cởi sạch áo váy, đồ trang sức và đổi sang một bộ BDU1 màu đen.
1 BDU: quân phục dã chiến
“Giờ thì ta đã hiểu tại sao con giúp cô ta.” Duke vừa nói vừa cười.
“Nhìn phía trước đi, cha.”
“Một thiên thần nữa có thêm đôi cánh.”
Jenn trèo trở lại lên ghế trước để đeo đôi ủng vào. Với bộ tóc và khuôn mặt trang điểm kiểu phụ nữ Nga đi dự tiệc, ngoại hình hiện tại của cô có sự đối nghịch thú vị.
“Sao nào?” Cô hỏi đầy nghi ngờ.
“Cô có cái gì trên mặt kìa.”
“Ôi dào, anh thôi đùa đi được rồi. Anh biết là tôi phải mất bao lâu để gỡ mấy thứ đó ra không? Tôi đã dùng quá nhiều thuốc xịt tóc đến nỗi giờ nó như một cái tổ ong bằng sợi tổng hợp vậy.”
“Không… trông cô giống…”
“Anh nên cầu Chúa trước khi nói hết câu đó đi.”
Cảm giác nhẹ nhõm trước khi tiến vào một hiểm họa sinh tử làm cho họ có chút vui mừng quá trớn. Trong vài phút ngắn ngủi, họ đùa giỡn với nhau giống như hai đứa trẻ mới lẻn ra khỏi nhà sau giờ giới nghiêm. Nhưng, rất nhanh thôi, áp lực của tình huống lại trỗi dậy, và họ rơi vào im lặng khi chiếc xe vượt qua những nhà ga chính. Trong chiến dịch lần này, đã có ba lần anh gặp phải những người xém chút nữa làm hỏng việc – viên cảnh sát xuất hiện khi Swonger phá ổ đề xe, nhân viên an ninh tại cửa kiểm tra và anh nhân viên lễ tân. Họ không phải là những chú mèo, cứ thế này thì sẽ nhanh chóng mất mạng mất.
Chuyến bay của Cold Harbor sẽ không khởi hành trong vòng chín mươi phút nữa nên Gibson có thể đi đường vòng để tránh các văn phòng của Tyner Aviation. Điều họ không mong muốn nhất là có một ai đó tự nhiên nhìn thấy và thắc mắc tại sao một trong những chiếc xe của họ lại lượn lờ vào giờ này. Jenn có thời gian để xem lại phần tiếp theo của kế hoạch. Cả hai bọn họ đều nằm lòng rồi nhưng Gibson vẫn để cho Jenn nói. Việc nói ra khiến cho cô ấy tập trung hơn và làm anh trấn tĩnh. Nếu thành thật thì đây là thời điểm mà kế hoạch tỉ mỉ của họ sẽ trở thành một thứ gì đó hơn hẳn những tình huống dự phòng có thể xảy ra. Thứ mà lực lượng Thủy quân lục chiến gọi là trật tự phân đoạn – một bộ các quy trình tác chiến tiêu chuẩn khi kế hoạch cần được thực thi trên thực địa – nếu cái này xảy ra thì sau đó sẽ đến cái kia; nếu cái kia xảy ra thì sau đó sẽ là cái này.
Khác biệt ở đây là lực lượng Thủy quân lục chiến dành hàng ngàn giờ đồng hồ để thục luyện những quy trình tác chiến tiêu chuẩn đó. Jenn và Gibson mới chỉ thục luyện kế hoạch của họ trên lý thuyết. Họ chỉ là một đơn vị trên danh nghĩa mà thôi. Tồi tệ hơn là họ đang phải đối đầu với những tay lính đánh thuê chuyên nghiệp, những kẻ đã được huấn luyện cùng nhau trong nhiều năm. Họ có yếu tố bất ngờ là lợi thế chứ không có gì hơn.
Đôi khi chừng đó là đủ.
Calista có tay trong ở công ty mà đã cho họ bức tranh chi tiết về hoạt động hậu cần thông thường của Cold Harbor. Nhưng chuyến bay này lại là một thứ gì đó khác, không hề thông thường. Eskridge sẽ chuyển lậu một công dân Mỹ bị bắt cóc ra khỏi đất nước cùng với đống hàng hóa bí ẩn của ông ta. Bí mật bao trùm đêm nay được giấu hết sức kín kẽ. Mắc chứng hoang tưởng nặng, Eskridge tự tay coi sóc mọi khía cạnh của chuyến bay. Không ai bên ngoài vòng tròn thân cận của ông ta được phép tiếp cận và Calista cũng không dám tiến đến quá gần vì sợ làm ông ta nghi ngờ.
Vì thế, Jenn và Gibson đã lập kế hoạch cho nhiều tình huống dự phòng khác nhau, họ hiểu rằng nhà chứa máy bay Số Sáu sẽ vẫn mãi là một ẩn số cho tới khi họ tận mắt thấy nó. Do đó, bốn chiếc va li lớn – Jenn đã chuẩn bị để tác chiến cho nhiều trận đánh khác nhau phụ thuộc vào tình hình khi họ tiếp cận vào nhà chứa Số Sáu đó. Liệu rằng Eskridge có giữ nguyên ý định ban đầu và giữ cho Cold Harbor ít bị chú ý đến? Hay là ông ta sẽ tăng cường hoạt động an ninh và chấp nhận mạo hiểm bị nhân viên hải quan chú ý? Họ đã sẵn sàng để vén màn bí mật.
Jenn mặc bộ áo vest quân dụng lên khi Trung tâm Không lưu Dulles dần hiện lên trong tầm mắt. Một chuỗi sáu nhà chứa máy bay hình chữ V màu trắng được xây liền với nhau. Trung tâm không lưu đặt trụ sở và trung tâm dịch vụ khách hàng của nó ở chính giữa, mỗi bên có ba nhà chứa máy bay. Nhà chứa Số Sáu nằm ở cuối mạn phía Bắc của dãy nhà và nó đủ lớn để chứa một chiếc 747.
Nhìn từ phía ngoài, trung tâm dịch vụ khách hàng ở đây cũng giống như của Russert Aviation, ngoại trừ một điều là Gibson không thấy ai ở quầy lễ tân. Anh bấm chuông dành cho dịch vụ qua đêm và nhấp nhổm đứng trên hai chân trong cái lạnh giá buốt. Một phút trôi qua. Anh bấm chuông lại lần nữa. Jenn căng thẳng gật đầu ở trong khoang xe tối thui khi anh nhìn lại. Cuối cùng, một người phụ nữ tầm 40 tuổi xuất hiện. Chị ta có vẻ mặt của một cô vợ xinh đẹp trong những bộ phim sitcom của thập niên 90, người có ông chồng quá khổ đã thừa nhận những hành vi vụng trộm của mình. Qua cửa kính, chị ta hỏi Gibson muốn gì. Chùm chìa khóa trong tay chị ta lắc lư, nhưng chị ta không hề có động thái mở cửa.
“À, xin chào.” Gibson nói. “Mindy có gọi cho chị chưa? Tôi ghé qua đây để mượn một con đội ba chân.”
“Tôi không nói chuyện với Mindy nào cả.”
“Mindy không gọi sao? Không, phải rồi, cô ấy không hề gọi. Thật không thể tin nổi.” Anh nói, làm ra vẻ như đó là điều dễ hiểu nhất mà anh từng thấy trong suốt cả năm trời. Ôi đúng là Mindy.
“Anh cần mượn nó bao lâu?” “Một giờ, có lẽ là hai. Loại tốt.”
Chị ta cân nhắc lời nhờ vả trong thoáng chốc trước khi quỳ xuống để mở khóa cửa sàn. Sau khi anh đi vào, chị ta định quay ra để khóa cửa sau lưng anh lại, nhưng cái lười đã ngăn chị ta lại. Đây là Dulles… chuyện gì có thể xảy ra được chứ?
Gibson theo chị ta vào văn phòng bên trong. Tiếng nhạc jazz vô hồn giống như chính Tyner Aviation văng vẳng trên đầu anh. Tiếng nhạc khiến Gibson có một cảm giác siêu thực rằng anh vẫn chưa tạo ra được sự tiến bộ nào. Duke ngồi sẵn ở trên một chiếc ghế ngoài hành lang. Ông ấy huýt sáo không ngừng khi cậu con trai đi ngang qua.
Một nửa lớn của văn phòng phía trong bị chia tách bởi những đồ vật hình khối hộp lớn. Một chiếc máy photocopy. Một chiếc bàn dùng chung. Một dàn màn hình giám sát chiếm cứ một góc khác của văn phòng. Nếu ba người đàn ông trong văn phòng không ngước lên nhìn Gibson, có lẽ họ đã trông thấy Jenn lách qua cửa đi vào. Gibson giơ tay lên chào. Hai người trông có vẻ như thợ máy, người còn lại trông như nhân viên hỗ trợ khách hàng. Gibson không thấy bất kỳ một người nào trong số họ mang dáng dấp một anh hùng cứu thế, nhưng một trong số hai thợ máy có thân hình lực lưỡng với cánh tay săn chắc như trục khuỷu. Gibson sẽ phải để mắt đến anh ta.
“Có ai từng nói chuyện với một người tên Mindy chưa?” Cô vợ trong phim sitcom hỏi.
Cả ba người đàn ông đều lắc đầu.
“Thật không thể tin được.” Gibson nhắc lại lần nữa. “Đừng lo lắng. Chúng tôi đều biết Mindy đó mà.” Chị ta nói. Chẳng cần biết chi tiết ra sao hay Mindy là ai, cả phòng đều cười khúc khích đồng tình. Hơn cả tình yêu hay gia đình, sự quản lý lỏng lẻo vượt qua tất cả mọi văn hóa và ngôn ngữ.
Gibson mỉm cười biết ơn với họ. “Nhiều anh bạn làm việc ở đây đêm nay quá.” Anh nói. “Bao nhiêu người phải làm việc ca đêm muộn thế này ạ?”
Câu hỏi đó đã kích động vài người buông lời cằn nhằn. “Sáu.” Một thợ máy nói.
“Anh tin thế sao?” Một thợ máy khác nói.
“Chúng tôi có một chuyến bay khởi hành trễ.” Cô vợ trong phim sitcom giải thích. “Sau đó, tất cả chúng tôi sẽ được biến khỏi đây.”
“Ngoại trừ tôi.” Nhân viên dịch vụ khách hàng nói. “Tôi sẽ ở đây mãi mãi.”
“Tôi hiểu rồi.” Gibson nói với giọng cảm thông và lấy điện thoại ra. Anh gọi cho Jenn, cô bắt máy ngay từ hồi chuông đầu tiên.
“Mindy.” Gibson nói, đảo mắt nhìn đám người. “Snh đang ở DAC. Em đã nói cho ai ở đây biết thế?” Anh lắc đầu khi nghe lời giải thích từ phía bên kia. “Được rồi. Được rồi. Thế nào cũng được. Dù sao thì họ cũng sẽ giúp đỡ chúng ta chuyện này, nhưng em khiến anh trông như một gã hề vậy.” Anh giả vờ nghe phía đầu dây kia nói và làm ầm lên khi nghe bên kia hỏi điều gì đó. “Ồ, rồi, chúng ta có bốn người cả thảy. Anh đã mượn thêm đồ dự phòng vì hai cái đang không có ở đây. Không. Anh không biết chúng ở đâu cả. Ừ.
Cả thảy là sáu.”
Jenn xác nhận con số và cho anh khoảng thời gian đếm ngược ba mươi giây. Gibson cúp máy và giơ tay lên trời than vãn.
“Mindy chết dẫm.” Một người thợ máy nói như thay lời anh vậy.
“Cảm ơn sự giúp đỡ của các anh.” Gibson đi về phía họ để giả vờ bắt tay cảm ơn, bắt đầu từ người thợ máy to con. Anh muốn mình ở thế thuận lợi, phòng trường hợp họ có đủ dũng khí phản ứng lại.
Jenn nhảy bổ vào phòng từ cửa.
Cô như một bóng ma, mặc đồ đen kín từ đầu đến chân. Một chiếc mặt nạ hở mắt che hết khuôn mặt của cô ấy. Nhưng Gibson cá rằng chi tiết duy nhất mà họ có thể sẽ nhớ được là nòng súng ngắn Remington. Súng ngắn có một khả năng kỳ lạ đến buồn cười là có thể tẩy sạch mọi trí nhớ khác. Nó được nạp những băng đạn cao su không gây chết, nhưng cách duy nhất để biết có chết hay không là ăn một viên vào giữa ngực. Đó là một cái dốc trơn trượt và sẽ chỉ có những bộ não cứng cỏi nhất mới dám nghĩ đến chuyện thử xem nó thế nào.
Jenn lên đạn và hét họ giơ tay lên. Những chỉ dẫn như tiếng quát – những mệnh lệnh ngắn gọn, đanh thép. Kiểm soát cả phòng. Không cho phép bất kỳ ai có đủ thời gian để nghĩ đến chuyện đánh lại. Gibson giơ tay lên và đứng lùi lại hòa vào đám đông kia.
Jenn lùa họ ra khỏi văn phòng, quay trở ra hành lang và sang phòng họp. Cô chuyển sang giọng êm dịu và bình tĩnh. “Giữ yên lặng, làm theo yêu cầu. Sẽ không ai bị thương cả.” Cô nhắc đi nhắc lại câu đó. Một bài hát ru cho những đứa trẻ vừa bị đánh thức giữa đêm bởi một cơn ác mộng khủng khiếp. Cô yêu cầu họ nằm úp mặt xuống sàn, hai tay cho ra sau gáy. Khi tất cả bọn họ đã nằm xuống, cô đá vào Gibson bằng má bàn chân. “Mày. Đứng lên.”
“Cô vừa bảo tôi nằm xuống mà.” Gibson phàn nàn, lổm ngổm bò dậy. “Cô muốn sao chứ?”
Cô vợ trong phim sitcom kia rít lên kêu anh im lặng và làm theo. Cô ta còn cố nằm ép chặt xuống sàn hơn nữa như thể sự vâng lời của cô ta sẽ bù đắp cho cái miệng lắm lời của Gibson vậy.
Jenn thả chiếc túi khóa kéo xuống chân Gibson và yêu cầu anh trói giật cánh khuỷu bốn người kia lại. Gibson cố di chuyển thật nhanh xuống lấy cái túi trong khi vẫn giả vờ không tuân theo mệnh lệnh làm tòng phạm bất đắc dĩ. Nòng súng chĩa vào ngực anh được làm ra để thuyết phục. Bốn người bạn mới của anh nhìn lên sợ hãi, nhưng không ai chống trả hay đánh lại. Khi cả bốn người họ đã bị trói chặt, dán kín miệng và trùm kín đầu, Jenn ra lệnh cho anh nằm xuống đất. Họ đợi một phút rồi cùng trở lại văn phòng điều hành trung tâm không lưu và bắt tay vào việc.
Điều đầu tiên cần làm: Gibson hack hệ thống máy tính của Trung tâm Không lưu Dulles và vô hiệu hóa máy chủ đã ghi hình an ninh. Anh xóa sạch hình ảnh trong ba mươi phút vừa qua. Những máy quay đã ghi hình rất nhiều hình ảnh an ninh trong một thời gian rất, rất dài, nhưng ba mươi phút vừa qua là đặc biệt nguy hiểm. Ba mươi phút tiếp theo có thể sẽ còn tồi tệ hơn nữa.
Tuy nhiên, anh vẫn để camera hoạt động, như vậy Jenn có thể xác nhận rằng không có người đi lang thang nào lượn lờ đến những chỗ mà họ không nên đến. Hài lòng, Jenn nói với Gibson chuyển tất cả màn hình sang những camera ở các góc độ khác nhau bên trong nhà chứa Số Sáu. Họ chúi đầu vào các màn hình và nghiên cứu địa hình, háo hức vì cuối cùng họ cũng biết mình phải đối mặt với cái gì.
Ở giữa nhà chứa là chiếc Lockheed C-130 Hercules màu xám đá. Một con quái thú to lớn chậm chạp với tốc độ tối đa của một khối gạch khí động học. Nó không nhanh, không thoải mái, cũng chẳng đẹp. Nhưng nó vô cùng bền bỉ và có thể đưa người tới đây mà không xây xát một mảnh giáp. Gibson đã bay trong chiếc C-130 này nhiều hơn số lần mà anh có thể đếm trong thời gian phục vụ ở lực lượng Thủy quân lục chiến. Là một con ngựa chiến của quân đội từ thập niên 1950, chiếc C-130 được thiết kế để vận chuyển binh sĩ và vũ khí trang bị. Nhưng nó cũng được sử dụng cho hàng tá mục đích khác nhau trong suốt quãng đời tồn tại sáu mươi năm có lẻ của mình. Sải cánh của nó rộng khoảng 40 mét tính từ điểm đầu này đến điểm đầu kia, nhưng nhà chứa thì rộng đến nỗi hai chiếc máy bay phản lực cỡ vừa cũng có thể đậu thoải mái về phía tường hướng Bắc.
Bốn động cơ cánh quạt của chiếc C-130 khó có thể khởi động một cách an toàn ở bên trong nhà chứa. Điều đó giải thích vì sao có hai thợ máy vắng mặt ở văn phòng điều hành. Họ đang kết nối một chiếc xe kéo với chiếc máy bay để kéo nó ra ngoài. Jenn phác họa tổng quát phần bên trong của nhà chứa khổng lồ. Ngoài những tay thợ máy, họ đếm được hai tên lính đánh thuê của Cold Harbor đang gác ở cánh cổng vào phía trong của nhà chứa và khoảng hai tên nữa gác cổng ngoài. Thêm năm tên nữa tụ tập ở cuối chiếc xe kéo, chỗ kết nối với chiếc máy bay. Tất cả đều mặc áo dã chiến sa mạc, nhưng rõ ràng không thấy tên nào mang theo vũ khí.
Theo như họ phỏng đoán, Eskridge đã chơi chìm, tin tưởng vào hệ thống an ninh do sân bay Dulles tạo ra. Dẫu vậy, chín tên lính đánh thuê không có vũ khí tản mạn trong một nhà chứa lớn cỡ này sẽ khó kiểm soát hơn nhiều so với một phòng đầy nhân viên điều hành sân bay. Đó là mới chỉ tính đến những tên mà họ có thể nhìn thấy thôi đấy. Họ không quan sát được phía trong máy bay. Calista cứ khăng khăng rằng phần lớn nhân lực của Cold Harbor đã được điều chuyển đến đóng trại ở Bắc Phi, nhưng Gibson có thừa kinh nghiệm để hiểu rằng một chiếc C-130 có thể chứa được bao nhiêu người. Nếu có nhiều hơn một phi đội tối thiểu, họ sẽ phải ra những quyết định khó khăn. Gibson sợ rằng Jenn đã đưa ra những quyết định đó rồi. Cô nhìn nhận những kẻ liên quan đến Cold Harbor đều là đồng lõa. Nếu họ gặp phải sự kháng cự mãnh liệt khi họ chiếm chiếc máy bay, cô ấy sẽ chẳng ngần ngại cho mấy tên này đi chầu Diêm vương.
Giết chúng hoặc bị giết.
Jenn chỉ vào một gã đang cầm trên tay cái bảng. “Đó là gã trùm sò. Hắn ta có danh sách hàng chuyển đi. Chúng ta sẽ phải nói chuyện với hắn. Số còn lại trông như lính đánh thuê.”
“Chừng đó là khá nhiều.” “Đồng ý.”
“Chúng ta cần khử dần từng đứa một.” Gibson nói. “Dụ một số gã đến chỗ chúng ta.”
“Anh có ý tưởng gì?”
Họ cùng nhìn vào những hình ảnh nhập nhòe trên các màn hình, cố tìm ra một giải pháp. Gibson muốn tránh một cuộc tắm máu, nếu có thể. Anh có một ý tưởng.
“Cửa nhà chứa đang đóng.” Anh nói. “Thì sao?”
“Cơ cấu chuyển động chung được kiểm soát bằng máy tính. Tôi đã phát hiện ra điều này khi tôi đột nhập vào hệ thống của họ. Nếu chúng ta vô hiệu hóa cái cửa nhà chứa, sẽ có kẻ nào đó phải đi kiểm tra vấn đề.”
Jenn thích ý tưởng đó. Họ cùng nhau vạch ra một kế hoạch và đi ra chỗ xe tải để lấy vali. Cô mở trang bị mà họ sẽ cần trong khi Gibson sử dụng máy tính ở văn phòng để khóa cánh cửa nhà chứa. Sau đó, họ chờ đợi và theo dõi.
Đồng hồ điểm gần một giờ sáng.
Các thợ máy đã hoàn tất việc móc xe kéo vào chiếc máy bay. Một người đi đến bảng điều khiển gắn trên tường giữa cửa ra vào bên ngoài và cửa cuốn lớn của nhà chứa bên trong. Trên màn hình không có âm thanh, Jenn và Gibson thấy người thợ kỹ thuật vặn chìa khóa rồi bấm nhẹ vào một cái nút màu xanh. Không có gì xảy ra cả. Người thợ cố thử thêm nhiều lần nữa. Hai tên lính đánh thuê của Cold Harbor gác ở cửa ra vào cũng xúm đến và thử bấm nút. Vẫn chẳng có gì cả. Người thợ kia cũng đi đến và bốn người bọn họ xúm lại cố gắng tìm ra vấn đề trước khi đi đến đồng thuận rằng nó không hoạt động.
Một gã đứng phía sau chiếc C-130 sải bước qua nhà chứa để đến xem chuyện gì đang xảy ra. Hắn ta có diện mạo của một tên cà lơ phất phơ, làm việc chẳng có kế hoạch gì sất.
“Tôi biết hắn ta. Tên là Norrgard. Thủ lĩnh và là một tên chó chết.” Jenn nói, rướn người lên để soi kỹ hình ảnh đang nhấp nháy. “Tóm được hắn và chúng ta sẽ kiểm soát được tình hình.”
Ở dưới nhà chứa, một quyết định đã được đưa ra. Được hai tên lính đánh thuê của Cold Harbor hộ tống, một trong số các thợ kỹ thuật vội vã rảo bước qua nhà chứa. Chúng đi ra bằng một cửa nhỏ hơn và đi vào một hành lang kết nối nhà chứa với văn phòng của Trung tâm Không lưu Dulles. Gã đàn ông mà Jenn nhận diện là thủ lĩnh đã cập nhật tình hình cho đám còn lại. Người thợ máy thứ hai quay trở lại chiếc xe kéo và ngồi thoải mái sau tay lái.
Gibson kích hoạt lại hệ thống kiểm soát cửa nhà chứa. Họ đã sẵn sàng chờ những con mồi dấn thân đến.