“Một ngọn nến có thể thắp sáng cho hàng ngàn cây nến khác và ánh sáng của nó vẫn không bị mờ nhạt đi. Tương tự, hạnh phúc không bao giờ vơi bớt đi khi được chia sẻ.”
– Đức Phật
“Một ngọn nến có thể thắp sáng cho hàng ngàn cây nến khác và ánh sáng của nó vẫn không bị mờ nhạt đi. Tương tự, hạnh phúc không bao giờ vơi bớt đi khi được chia sẻ.”
– Đức Phật
Tôi cố kìm nén một tiếng thở dài. Tôi và Arthur, cậu con trai riêng mười bảy tuổi của chồng tôi, đang chuẩn bị rời khỏi bữa tiệc tổ chức tại công ty tôi. Trên bàn vẫn còn thừa lại rất nhiều thức ăn và ban tổ chức đang kêu gọi mọi người gói mang về nhà. Ngay lập tức, Arthur nhắm đến đĩa bánh tiramisu cỡ lớn mà không ai khác muốn đem về. Phần tráng miệng đó đủ cho bốn người ăn, mà bác sĩ của Arthur lại vừa nhắc nhở chúng tôi phải chú ý đến lượng đường thằng bé nạp vào hằng ngày.
“Làm ơn đi mà, mẹ Gwen! Đi mà!”
Tôi nhìn chằm chằm gương mặt phụng phịu của cậu thiếu niên cao hơn một mét tám trước mặt. Từ “Không” đã chực chờ trên đầu lưỡi nhưng lại không thốt ra được thành lời. Trong đầu tôi bắt đầu diễn ra cuộc nội chiến giữa “Người mẹ nghiêm khắc” và “Người mẹ tuyệt vời”.
Người mẹ nghiêm khắc: Thằng bé không nên ăn nhiều đường như vậy.
Người mẹ tuyệt vời: Nhưng giờ đang nghỉ lễ mà!
Người mẹ nghiêm khắc: Thằng bé sẽ bị tăng động suốt đêm và trở nên cáu kỉnh vào sáng hôm sau.
Người mẹ tuyệt vời: Chỉ cần nói thằng bé ăn từ từ và không được ăn hết cả đĩa trong một lần là được.
Người mẹ nghiêm khắc (khịt mũi): Ừ, làm như việc đó dễ lắm ấy.
Người mẹ tuyệt vời: Tối nay thằng bé đã cư xử rất tốt. Ăn một phần tráng miệng không chết được đâu.
Chuyện một chàng trai mới lớn xin mẹ được ăn đồ ngọt như một đứa trẻ nghe có vẻ thật kỳ quặc, nhưng đó là bởi vì Arthur mắc chứng tự kỷ. Dù cực kỳ thông minh, đôi khi thằng bé vẫn có những biểu hiện khác thường khiến vợ chồng tôi thấy khó xử ở chỗ đông người. Chẳng hạn như ngay lúc này, khi thằng bé đứng sừng sững trước mặt tôi, chụm hai tay lại và tha thiết năn nỉ tôi cho nó mang món bánh tiramisu về nhà, ngay trước mắt tất cả các đồng nghiệp của tôi.
“Làm ơn đi mà, mẹ Gwen? ĐI MÀ MẸ.”
Tôi mủi lòng. Arthur đã ngoan ngoãn đi theo tôi suốt một ngày dài, tôi đã kéo thằng bé đến bữa tiệc này vì cha nó đi vắng, còn tôi lại không muốn để thằng bé ở nhà một mình. Mặc dù Arthur thường thấy mệt mỏi khi phải chào hỏi xã giao người lạ, thằng bé vẫn ăn tối và trò chuyện một cách lịch thiệp với các đồng nghiệp của tôi cho tới khi tàn tiệc. Tôi lập luận rằng đĩa bánh tiramisu này chính là phần thưởng và một lời cảm ơn, vì thằng bé đã chấp nhận thay đổi lịch trình hằng ngày của mình vì tôi.
Khi chúng tôi rời nhà hàng, Arthur ôm chặt hộp bánh tráng miệng trong tay và vui vẻ rảo bước cạnh tôi đi vào bãi đỗ xe. Tôi đang cố hối thúc Arthur nhanh tay nhanh chân hơn thì thằng bé bỗng khựng lại cạnh xe của chúng tôi để quan sát thứ gì đó. Tôi quay người lại để xem thứ gì đã khiến thằng bé quan tâm đến vậy.
Đứng cách chúng tôi tầm hai mét là một người đàn ông trong một chiếc áo khoác phao dày, đang khom người, giậm chân và xoa hai bàn tay vào nhau, cố gắng xua tan cái lạnh. Cứ vài giây, anh ta lại mỉm cười và tìm cách bắt chuyện với những người đi ngang qua, nhưng không ai thèm để ý đến anh ta. Đúng lúc đó, người đàn ông quay lại và thấy con trai tôi đang nhìn mình. Tôi chưa kịp lên tiếng thì người đàn ông đã mỉm cười và nói: “Này anh bạn, cậu có còn chút tiền lẻ nào không?”.
Arthur lục tìm trong chiếc túi rỗng của mình và thoáng nhìn qua tôi. Tôi lắc đầu – dạo này tôi gần như không mang theo tiền mặt nữa. Arthur cau mày suy nghĩ, sau đó thằng bé đã thốt lên một điều khiến tôi thật sự kinh ngạc:
“Cháu không có tiền. Nhưng chú có đói không? Chú thích ăn bánh tiramisu chứ?”
“Bánh tiramisu hả? Chú chưa từng thử qua. Nhưng đúng là chú đang đói lắm.”
Gương mặt của Arthur sáng bừng lên: “Bánh tiramisu ngon lắm đó chú! Đây, chú cầm lấy đi. Món tráng miệng này hơi béo, có vị như là…”.
Đôi mắt của người đàn ông sáng lên khi anh nghe Arthur miêu tả hương vị của món tráng miệng ngon lành này và thậm chí còn chia sẻ chi tiết về cách thưởng thức món bánh ngọt. Tôi rưng rưng nhìn nụ cười cảm kích của người đàn ông ấy, vì tôi biết niềm vui của anh không chỉ đến từ hộp bánh tiramisu.
Tôi không biết ngày hôm đó đã có bao nhiêu người phớt lờ người đàn ông này khi thấy anh ta trên đường. Có bao nhiêu người đã xem anh ta như người vô hình? Tôi phải thú thật rằng chính tôi cũng suýt nữa đã cư xử theo cách đó. Còn con trai tôi ư? Cậu con trai mà chỉ cách đó ít phút còn hết lời năn nỉ tôi được mang phần bánh tiramisu lớn đến tức cười kia về, lúc này lại vui vẻ trao món tráng miệng quý giá của mình cho một người đàn ông xa lạ vì anh ta đang đói. Arthur không chỉ đưa thức ăn rồi bỏ đi, thằng bé còn đứng lại bắt chuyện cùng người đàn ông, và đây có lẽ là cuộc trò chuyện đầu tiên của anh ta trong cả ngày hôm đó. Arthur đã đối xử với người đàn ông như một con người, một cách đầy tôn trọng, chín chắn và hết sức tử tế. Từ nụ cười trên gương mặt của người đàn ông, tôi biết đây mới là lý do thật sự khiến anh ấy hạnh phúc.
Sau khi Arthur kết thúc bài giảng về cách thưởng thức món bánh tiramisu, người đàn ông liền cảm ơn rối rít và bắt tay thằng bé. Arthur mỉm cười đáp lại, rồi thằng bé quay trở lại xe và ngồi vào ghế phụ lái. Khi mẹ con tôi lái xe đi, tôi nhìn vào kính chiếu hậu và thấy người đàn ông kia đang cẩn thận bày phần bánh tiramisu ra trước mặt, theo đúng như hướng dẫn của Arthur.
Tôi cố nén xúc động, nhìn sang đứa trẻ kỳ quặc nhưng cũng vô cùng tuyệt vời vừa mới bước vào cuộc đời mình và cảm thấy “Người mẹ tự hào” trong tôi đang từ từ xuất hiện.
“Mẹ thật sự rất tự hào về con, Arthur. Con đã cư xử hết sức chu đáo và đã giúp chú ấy thấy rất vui đấy.”
Câu trả lời của thằng bé khi đó, cũng giống như hiện tại hay bất kỳ khi nào tôi nhớ lại câu chuyện này, đã khiến tôi vừa kinh ngạc vừa cảm động: “Làm vậy là đúng logic mà, mẹ Gwen”.
Một số người cho rằng các bệnh nhân tự kỷ là những người thiếu khả năng đồng cảm, không có cảm xúc và luôn coi trọng lý hơn tình. Nhưng chúng tôi, cha mẹ của những đứa con bị tự kỷ, biết rằng điều này không đúng. Arthur thường nói với tôi rằng thằng bé cảm thấy bản thân quá nhập tâm vào cảm xúc của người khác, đôi khi dẫn đến tình trạng quá tải cảm xúc, khiến thằng bé phải dành hàng giờ ở một mình trong phòng riêng để lấy lại cân bằng. Tuy nhiên, chưa bao giờ Arthur từ chối giúp đỡ người khác nếu thằng bé cảm thấy họ cần được giúp đỡ. Con trai tôi thích giúp đỡ người khác và vào thời gian rảnh, thằng bé thích đến làm tình nguyện viên tại các tổ chức từ thiện khác nhau trong cộng đồng. Arthur đã làm việc chăm chỉ để đóng góp cho xã hội theo cách riêng của mình.
Tôi vẫn thường nhớ đến buổi tối hôm đó cũng như những bài học quý giá tôi học được. Đầu tiên, những người mắc chứng tự kỷ chắc chắn có cảm xúc và cảm xúc của họ cũng giống như những người “bình thường” chúng ta. Thứ hai, người tự kỷ có khả năng và chắc chắn biết đồng cảm với người khác, ngay cả khi họ không biết cách biểu lộ điều đó. Cuối cùng, và có lẽ cũng là bài học quan trọng nhất, những việc làm tử tế không nhất thiết phải là những việc làm khó khăn hay phức tạp.
Bởi vì như Arthur vẫn thường nhắc tôi nhớ: “Làm việc tử tế là đúng logic, mẹ Gwen ạ. Cư xử tử tế là việc làm hợp lý”.