“Hãy để niềm hy vọng, chứ không phải nỗi đau, định hình tương lai của bạn.”
- Robert H. Schuller
Trên chuyến tàu ngày 15 tháng 3 năm 1939, tôi là hành khách lớn tuổi nhất. Năm đó tôi mới mười bảy tuổi. Chuyến tàu khởi hành từ Vienna đến Hà Lan và Anh để đưa những đứa trẻ tị nạn chạy trốn khỏi kế hoạch thảm sát người Do Thái của Hitler – vụ thảm sát dã man đã cướp đi sinh mạng của biết bao con người vô tội, trong đó có ông ngoại và ba người dì của tôi.
Tất cả hành lý tôi mang theo chỉ là một chiếc vali đã ngả màu và cuốn sách mà tôi thích nhất. Mẹ nhét vào túi tôi một mảnh giấy nhỏ có viết một cái tên và vài dòng địa chỉ xa lạ. Bọn trẻ con chúng tôi ra đi trong niềm đau lẫn hy vọng của người thân. Chúng tôi dán mặt vào cửa sổ, cố ngoái nhìn người thân đang vẫy chào tạm biệt mình. Mẹ tôi cố chen vào đám đông chật cứng, nhoài người ra mà lấy tay huơ huơ trước cổ. Tôi hiểu mẹ muốn nhắc tôi nhớ quàng chiếc khăn mà mẹ đã đưa cho tôi ngày hôm qua. Nước mắt đầm đìa trên gương mặt mẹ. Tim tôi đau nhói và tôi thẫn thờ như người mất hồn. Liệu tôi có còn được nhìn thấy mẹ lần nữa không? Đâu đó dưới đám đông kia là Paul, em trai tôi. Liệu chúng tôi có lại được nằm cạnh nhau trên giường và đọc những câu chuyện phiêu lưu thú vị về miền viễn Tây Hoa Kỳ không?
Tôi là người đầu tiên trong gia đình đến nước Anh, nơi một người họ hàng xa của bố nói rằng có thể tìm cho tôi một công việc. Vào thời điểm đó, mọi gia đình người Do Thái đều bị chia cắt. Mục tiêu sống sót được ưu tiên hơn là sống bên nhau.
Đoàn tàu bắt đầu lăn bánh, đưa chúng tôi đến một tương lai vô định. Những đứa trẻ nhỏ trên tàu khóc thút thít, mắt dán ra ngoài cửa sổ dõi theo những người cha, người mẹ chạy theo đoàn tàu, vẫy vẫy những chiếc khăn tay thấm đẫm nước mắt. Ánh nắng nhợt nhạt phủ lên sân ga một màu sầu thảm và đớn đau vô cùng.
Tiếng máy chạy đều đều chẳng mấy chốc đã ru những đứa trẻ vào giấc ngủ, nước mắt vẫn còn đọng trên mi. Một số khác bắt đầu lục túi tìm thức ăn. Ngồi đối diện tôi là một cô bé gầy nhom tầm bảy tuổi, đeo bảng tên Liesel. Cô bé lấy chiếc khăn tay thêu hoa của mình lau nước mắt. Em đã khóc suốt quãng đường đến Hà Lan. Nỗi đau này quá lớn với em.
Mọi đứa trẻ đều đeo bảng tên trên ngực áo để những người thân có thể nhận ra chúng ở sân ga. Tôi không có bảng tên, và điều đó đồng nghĩa với việc sẽ không có ai đón tôi. Chờ đón tôi chỉ là một công việc mơ hồ ở một đất nước xa lạ mà đến ngôn ngữ của nó, tôi chỉ mới bập bõm được vài từ. Mẹ có gói theo cho tôi bữa trưa, nhưng tôi đã ăn cách đó mấy tiếng đồng hồ. Tôi đọc sách rồi chợp mắt một lát để quên đi cơn đói.
Đến Hà Lan, vài đứa trẻ rời tàu, trong đó có Liesel. Tôi nhìn ra ngoài cửa để xem cô bé có được ai đón không. Một người phụ nữ đứng tuổi tươi cười chạy đến nắm tay Liesel. Đó sẽ là người mẹ mới của em. Tôi thở phào và thầm mong Liesel có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những người khác tay cầm bức hình và đón lấy những đứa trẻ về với gia đình mới.
Cuối cùng, đoàn tàu cũng về đến ga Victoria. Tôi lặng lẽ mang hành lý bước xuống. Thành phố Luân Đôn trải dài trước mắt tôi, xám xịt, lạnh lẽo và lạ lẫm. Tôi lẳng lặng bước đi giữa thành phố rộng lớn. Cảnh vật nơi đây hoàn toàn khác so với quê hương tôi. Người dân ở đây to cao hơn, và nước da họ thì trắng hồng. Nhưng tôi cảm thấy họ có vẻ lạnh nhạt quá.
Người tôi đầy bụi đường và tôi ước ao được tắm. Tôi cũng cần tìm đường đến nhà người họ hàng xa của cha, và trên hết, tôi cần một bữa ăn.
Tôi đi lang thang rồi bước đại vào một quán ăn đông đúc. Mọi người nhìn tôi với vẻ hơi tò mò nhưng rồi nhanh chóng quay lại với công việc của mình. Dường như nước Anh đã quen với hình ảnh những đứa trẻ tị nạn lang thang, rách rưới và bẩn thỉu. Tôi ngồi xuống một chiếc bàn còn trống trong góc phòng. Một người phục vụ cao và gầy mang thực đơn ra cho tôi. Tôi lướt qua thực đơn và lắc đầu, ý nói rằng mình không biết tiếng Anh. Người phục vụ nhìn tôi thông cảm, rồi kín đáo chỉ vào các món ăn mà những thực khách khác đang dùng. Món nào trông cũng lạ, trừ một món trông giống xúc xích xông khói. Tôi chỉ tay vào thực đơn để chọn món đó.
“Xúc xích và khoai tây nghiền”, người phục vụ gật đầu rồi hí hoáy ghi vào sổ. Lát sau, anh ta quay lại với đĩa thức ăn nóng sốt.
Xúc xích đó không giống xúc xích xông khói chút nào và khoai tây nghiền cũng khác hẳn món khoai tây mẹ tôi vẫn làm. Khi tôi ăn xong, người phục vụ mang hóa đơn ra. Tôi nhìn tờ hóa đơn không biết mình đã ăn hết bao nhiêu tiền. Không chỉ vậy, tôi còn hoảng hồn nhớ ra mình không có một xu dính túi. Vì không biết phải nói thế nào, tôi chỉ bối rối lộn cả hai túi quần trống không của mình ra để người phục vụ thấy rằng tôi không có đồng nào trên người. Cả đời tôi chưa bao giờ cảm thấy nhục nhã đến thế. Tôi phải làm gì đây? Họ sẽ xử lý tôi như thế nào? Tôi chỉ muốn chạy trốn.
Đột nhiên, vị khách ở bàn bên cạnh bước đến gần người phục vụ, nói nhỏ điều gì đó vào tai anh ta và đề nghị trả tiền bữa ăn của tôi. Sau đó, ông quay lại nhìn tôi mỉm cười rồi vội vàng bước ra khỏi cửa. Tôi chỉ biết lí nhí nói câu cảm ơn rồi đứng trân ra đó nhìn ông bước đi.
Sáu mươi hai năm trôi qua, khi ngồi viết những dòng này, tôi vẫn không sao quên được hành động của người đàn ông đáng kính đó – người đã mang lại cho tôi một bữa no và cảm giác ấm áp khi tôi bơ vơ giữa vùng đất xa lạ.