• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Gió mùa hè
  3. Trang 11

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 27
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 27
  • Sau

Chương Sáu

Jebediah Pritchard sở hữu mảnh đất tiếp giáp với trang trại nhà Hollister về phía bắc. Nơi ở của nhà Pritchard cũng chỉ nhỉnh hơn cái lán một gian đôi chút, mái nhà lung lay cảm giác như muốn rớt hẳn xuống sân trong, hai cửa sổ phía trước dán đầy những mảng rách rưới. Bên hiên nhà rải rác đủ thứ linh tinh, phần lớn đều đáng để vứt vào thùng rác từ lâu. Một con gà mái màu nâu béo núc làm tổ ngay trên bồn rửa phía bên trái cánh cửa chính tồi tàn méo mó. Có vẻ như nhà Pritchard có thói quen ngược đãi cánh cửa này rất nhiều lần.

Khi David và Joseph cưỡi ngựa đi tới, Jeb đã bước ra ngoài mái hiên đổ nát. Hắn là một người đàn ông thấp lùn, cơ bắp rắn chắc với mái tóc nâu đã lốm đốm bạc, đôi mắt nâu tròn vo sáng quắc cùng làn da sạm nắng và bụi bẩn. Jeb đứng đó, hai cẳng chân như cái thân cây hơi giạng ra, trên tay cầm một khẩu súng săn. Các nếp nhăn trên khuôn mặt râu ria lởm chởm của hắn dường như khắc sâu hơn và có màu vàng đậm của bụi bẩn cùng bã nhờn cơ thể tích tụ lại. Hắn vẫn mặc bộ quần áo cũ rích hơn một năm nay, chiếc quần lao động chắp vá xỉn màu, sơ vin bên ngoài chiếc áo sơ mi trắng lâu ngày đã ngả màu xám xịt và cáu bẩn.

Lần này đến lượt David dẫn dắt câu chuyện vì trong hai anh em thì cậu ta mới là người đeo huy hiệu vì thế Joseph thong thả cưỡi ngựa và châm một điếu thuốc. Tốt nhất hắn cũng nên giả vờ thư giãn một chút. Một người đàn ông không thể hoàn toàn buông bỏ phòng vệ, nhất là khi đối mặt với những kẻ bẩn thỉu và nguy hiểm. Bài học này hắn đã thấm thía từ lâu.

“Chúng mày muốn gì?”, Jeb gắt gỏng.

Joseph thở ra một cuộn khói, thầm nghĩ chẳng ai dùng cách lô thỗ như thế này để chào đón một người hàng xóm. Rõ ràng David cũng có cùng ý nghĩ với Joseph, cậu cau có: “Chào hỏi hàng xóm như thế thì thật lỗ mãng, ông Jeb ạ”.

Mái tóc nâu điểm bạc xơ xác bị cơn gió chiều mùa đông khô và lạnh thổi bay, Jeb hơi rướn người về phía trước, rồi nhổ một bãi nước bọt màu nâu qua kẽ răng cửa đã sâu hỏng của gã. Thứ chất thải từ thuốc lá rơi gần trúng móng chân trước của con ngựa thiến mà David đang cưỡi. “Tao chẳng thèm lịch sự với một thằng đeo huy hiệu trên người.”

“Ồ, vậy hả.”

“Đừng có ‘ồ, vậy hả’ với tao. Tao biết thừa chúng mày đến đây để đánh hơi cái gì. Vì lão già Darby McClintoch bị bắn lén sau lưng ngày hôm qua. Được, tao sẽ nói ngay bây giờ, tao chẳng biết cái gì hết.”

“Thú vị thật. Ông nói mình không biết gì cả, vậy làm sao ông biết cả việc Darby bị bắn ngày hôm qua, hả Jeb?” Joseph hài lòng với câu hỏi của cậu em trai.

“Nghe từ Slim Jim Davidson trong thị trấn.”

Slim Jim, cái gã thợ giày ấy hả? Ánh mắt Joseph dừng lại ở đôi giày cày dính đầy phân đã đóng két lại của lão. David cũng liếc xuống chân Jeb. “Ông đi đánh bóng lại giày hả?”

“Mẹ kiếp, không phải thế. Trông tao giống mấy thằng đồng bóng lắm hả? Gặp gã Slim Jim lúc mang một đôi khác đến tiệm sửa giày.”

Hayden, đứa con trai cả của Jeb, ngay sau đó cũng xuất hiện ở hiên nhà. Anh ta cầm một khẩu súng lục ổ quay Smith & Wesson, đai súng nịt chặt vào eo cùng với bao da giắt trên đó. Hắn đứng giạng chân bên trái Jeb, vòm ngực phập phồng liên tục, hai tay chống lên hông, nhìn qua cũng rắn chắc hệt như cha mình. Hắn chỉ mặc độc một cái áo lót màu đỏ đã nhạt màu, phần tay áo te tua xắn cao quá cẳng tay cơ bắp, lông lá.

Mùi hôi thối bay ra từ chỗ mái hiên sau khi Hayden xuất hiện lại càng nồng nặc. Joseph không hiểu, xà phòng và nước sạch giờ càng ngày càng rẻ, vậy mà một số người vẫn cứ cố chấp không dùng. Tuy nhiên, người ta nói một người đàn ông sau ba ngày không tắm sẽ chẳng còn biết là mình bốc mùi nữa. Hắn chưa ở vào tình trạng đó bao giờ, nhưng có vẻ điều này cũng chẳng phải không có căn cứ.

“Vụ bắn nhau là thế nào đấy?”, Hayden hỏi bằng giọng gần như gầm gừ, miễn cưỡng cũng có thể coi đó như một nét quyến rũ riêng của dòng họ Pritchard.

David đổi lại tư thế trên lưng ngựa một chút. “Tôi muốn hỏi ông Jeb một số vấn đề.”

“Tại sao lại làm phiền cha tôi?”

Câu hỏi vang lên phía bên trong căn nhà, sau đó là tiếng bốt nặng nề nện lên sàn gỗ, Cyrus, người con thứ hai bước ra. Lại là một bản sao nữa của Hayden và cha gã, Cyrus tiến đến đứng ở phía bên phải cha mình.

“Cha tôi không gây gổ gì với Darby McClintoch cả”, Cyrus la lên. “Hayden và tôi cũng thế.”

“Chưa ai nói cha anh hay là anh em anh gây gổ với Darby”, David trả lời. “Tôi chỉ muốn thu thập chút manh mối có liên quan đến vụ việc.”

“Chẳng có manh mối nào quanh đây hết.” Cyrus quả quyết. David mỉm cười. “Chắc chắn rồi. Tôi chỉ ghé qua để hỏi xem ngày hôm qua anh hay người nhà anh có nghe thấy gì khi vụ việc xảy ra không thôi. Hiện trường vụ nổ súng cách đây cũng chẳng xa lắm”.

“Xảy ra ở cùng một chỗ trước kia nhà Hollister bị bắn“, Jeb xen vào, “Đấy là Slim Jim nói thế”.

“Có vẻ như gã Slim Jim này biết cũng khá nhiều đấy”, David lạnh nhạt quan sát gã. “Vậy thì thật lạ, tôi tưởng mình đã phong tỏa rất kỹ tin tức về vụ này rồi cơ.”

Cặp mắt tròn xoe, bé tí tẹo của lão ánh lên một tia nguy hiểm, lão gầm gừ: “Ý mày là tao đang nói dối?”.

David ngồi thẳng lại và hơi ngả người về phía sau, những ai quen thân với cậu ta sẽ đoán ngay được cậu đang chỉnh tư thế để có thể nhanh chóng rút súng ra bất cứ lúc nào. Joseph còn chưa hết choáng váng vì uy lực của khẩu súng săn tối hôm qua, hắn ném điếu thuốc xuống đất, hiển nhiên cũng đọc được dấu hiệu của em trai mình.

“Tôi đã nói rồi, tôi chỉ ngạc nhiên vì Slim Jim lại biết rõ vụ bắn lén đến thế”, David vẫn đều đều tiếp lời. “Còn ông muốn suy diễn thế nào thì tùy.”

“Có lẽ các người nên nói chuyện với Doc”, Jeb đề nghị. Con gà mái nâu chọn đúng lúc đó để rời cái tổ của mình trên bồn rửa mặt. Nó cục tác vài tiếng kích động trong khi hạ cánh xuống mái hiên. “Tối qua lão ta đến quán Golden Slipper rồi ba hoa cho tất cả mọi người ở đó biết về chuyện của Darby.”

David lại bắt đầu vặn hỏi lão: “Ông chẳng ưa gì Henry Hollister, đúng không, Jeb?”.

“Không chỉ đơn giản là không thích, tao ghét lão”, Jeb đáp trả: “Lão ấy là một thằng khốn ích kỷ, thâm hiểm”.

“Làm sao ông biết?”

“Lão là vậy, thế thôi, quỷ dữ rồi cũng sẽ đến đem linh hồn bẩn thỉu của lão đi.”

“Có tin đồn rằng trước kia ông và ông ấy có xảy ra tranh chấp ranh giới giữa hai trang trại.”

“Tranh chấp? Mẹ kiếp. Phải nói là chiến tranh mới đúng. Mà hắn ta thắng chẳng qua là do có tay luật sư khoe mẽ thuê ở ngoài Denver nhảy vào làm rối tung sự thật lên thôi.”

“Sự thật vốn có của nó?”, David hỏi, “Hay là sự thật theo cách nhìn của ông?”.

Pritchard tiến lên trước một bước, mặt lão đỏ bừng, cơn giận đã lan đến tận ria mép và mớ râu lởm chởm trên mặt lão.

“Sự thật là sự thật và chỉ có một cách duy nhất để biết. Con sông Wolverine Crick đánh dấu ranh giới phía nam trang trại này, vậy mà trận lũ chết tiệt năm bảy chín lại làm đổi dòng chảy của nó. Như vậy thì phần đất đai của tao cũng nên thay đổi theo nó mới đúng.”

“Điều này không khớp với chứng thư tôi đã đọc tối qua”, David nói. “Theo như mô tả thì ranh giới phía nam giữa trang trại của ông và nhà Hollister được xác định vĩnh viễn bằng dải đá trước kia nằm ở giữa dòng Wolverine Creek. Dải đá này nằm đúng trên một đường thẳng với đường ranh giới, cách mỗi bờ đông tây của con sông vài feet. Con lạch ở đây chỉ có tác dụng giúp phân định rõ hơn đường biên giữa hai nhà, chứ không phải là cột mốc hợp pháp. Dải đá mới được tính là cột mốc.”

“Nhảm nhí! Nhà Hollister đã cướp đi cái nhẽ ra là của tao!”, Jeb hung hăng nói, giơ một ngón tay lem luốc chỉ vào ngực mình. “Đất đai của tao, tao đã phải vất vả đổ mồ hôi nước mắt mới mua được.”

“Nhưng rất nhiều người đều nghĩ như thế, rằng chính ông đã cố cướp phần đất đai của nhà Hollister bằng cách cứ khăng khăng con lạch mới là cột mốc đánh dấu lãnh thổ nhà mình. Mặc dù thực tế nó đã đổi dòng và hiện nằm trong vùng đất chăn nuôi rộng vài mẫu của nhà Hollister.”

“Nói láo. Cái gì gọi là đi cướp khi tao chỉ lấy lại những cái nhẽ ra thuộc về mình? Tao mua một mảnh đất có sẵn nguồn cấp nước sạch, bây giờ không có nước, trang trại của tao chẳng còn gì ngoài cái xác khô và lũ bò héo quắt. Thật không công bằng, nhưng lão già Henry đó lại từ chối phân bố lại.”

“Ông ấy đã chuyển nước vào một cái ao ở trang trại của ông.”

“Ha, nổ như pháo rang ấy nhỉ. Hắn ta chỉ giả vờ cao thượng thế thôi.”

“Ông có giết ông ta không?”, David cuối cùng cũng châm ngòi câu hỏi.

“Chết tiệt, không phải, tao không giết hắn, nhưng cũng chẳng thấy tiếc vì cái chết của thằng khốn đó. Vậy nên cứ chấp nhận sự thật đi cho rồi. Nếu mày muốn biết, tao còn thấy mừng khi nghe thấy hắn chết ấy chứ. Cuối cùng thì công lý cũng được thực thi.”

David nheo mắt lại. “Còn vợ con ông ta thì sao? Ông cũng vui vẻ khi họ chết hả Jeb?”

“Quỷ tha ma bắt cả nhà hắn đi”, Jeb lại bắt đầu tuôn một tràng. “Tiếc là đứa con gái lớn không chết cùng cả đám kia. Nếu thế tao đã có thể mua lại chỗ đó. Giờ thì có muốn cho nổ tung cô ta bằng một xe thuốc nổ cũng chẳng được.” “Cha”, Cyrus thấp giọng gọi lão. “Cẩn thận mồm miệng đấy.”

“Tao cứ nói đấy, chó chết. Chả ai vào tù vì nói đúng những điều hắn nghĩ cả.”

Joseph liếc thấy đứa con trai nhỏ nhất lấp ló trong nhà kho. Cũng giống anh trai mình, Alan Pritchard đeo một khẩu súng bên sườn. Nhưng bọn họ cũng chỉ giống nhau ở điểm đó. Người con thứ ba này xanh xao như tàu lá với màu tóc hoe vàng, cậu ta ít hơn Hayden và Cyrus phải đến mười lăm tuổi, trong khi các anh cậu ta năm nay cũng gần bốn mươi. Cả nhà Pritchard cũng chỉ có mình cậu ta nhìn hệt như cây sào, gầy đến nỗi có thể đem so với cái bóng đổ bên cạnh.

Người ta đồn rằng Alan giống người mẹ đã mất ngay sau khi sinh cậu ta. Cũng có người nói không lâu trước khi Charlene Pritchard mang bầu Alan, bà ta đã lén qua lại với một gã tóc vàng chơi đàn piano ở Silver Spur, quán rượu lâu năm nhất hoạt động ở No Name. Jeb hình như có nghe phong thanh chuyện đó, rồi trong một lần say khướt trở về nhà, hắn đã nổi điên đánh đập vợ dã man đến nỗi làm bà sinh non, cuối cùng chảy máu đến chết.

Nếu xét nhiều khía cạnh, cộng với tính khí nóng nảy quá mức đàn ông của Jeb, Joseph tin lời đồn đó là sự thật. Một người phụ nữ hoàn toàn có khả năng sẽ lén lút quan hệ với người đàn ông khác sau lưng Jebediah Pritchard. Cũng không khó để hình dung cảnh lão dùng nắm đấm và bàn chân để hành hạ người vợ đang mang thai của mình như thế nào. Thêm nữa là Alan chẳng có vẻ gì giống dòng họ nhà Pritchard cả. Thông thường, một đứa trẻ, kể cả có giống mẹ nhiều hơn đi chăng nữa thì ít nhất nó cũng phải có điểm nào đó giống bố. Joseph ngờ rằng Alan thừa hưởng mái tóc vàng và cả những ngón tay thon dài đang giật giật căng thẳng bên cạnh khẩu súng kia từ người cha chơi piano của mình.

Trong lúc quan sát, hắn kéo nhẹ dây cương của Obie thúc con ngựa giống đi lên vài bước để bọc hậu cho cậu em David. Alan có thể không phải con ruột nhà Pritchard, nhưng cậu ta cũng từng lớn lên và được rèn tính nết hệt như hai người anh. Và hiện tại, có vẻ như cậu ta đang rất hung hăng muốn khơi mào một cuộc ẩu đả thực sự.

“Chuyện quái gì mà nhặng xị lên thế hả bố?”, Alan tiến đến hỏi.

“Vị cảnh sát trưởng đây nghĩ tao đã giết Henry Hollister.” Jeb lại hất cằm nhổ một bãi nước bọt. “Chắc cũng cho là tao bắn lão Darby McClintoch nốt.”

Cặp mắt xanh của cậu ta lóe sáng. “Con sẽ bắn nát óc thằng nào dám sỉ nhục con như thế, mặc kệ hắn có đeo huy hiệu trên ngực hay không.”

“Nếu thế thì bố anh sẽ phải hạ được cả hai anh em tôi cùng lúc”, Joseph cười lạnh, “và ông ấy chắc phải biết điều đó gần như là không thể”.

“Thế quái nào?”, Alan làm điệu bộ đầy thách thức, tự mãn bước lên vài bước. “Bọn tôi có tới bốn người, trong khi đó các anh chỉ có hai. Anh có nhanh mấy cũng chẳng ăn thua gì đâu, Paxton. Lợi thế thuộc về bọn tôi.”

Joseph vẫn cười. “Cứ rút súng đi, cậu em, rồi sẽ biết tôi nhanh đến mức nào.”

“Đừng nóng quá hóa liều, Alan”, Jeb cảnh cáo cậu con trai. “Hắn có thể kết thúc mọi việc ngay trước khi mày kịp chạm vào khẩu súng đấy.”

Alan bĩu môi. “Con thấy hắn làm gì nhanh đến mức đấy đâu.”

Joseph thật hy vọng Jeb có thể khống chế được tình hình. Cậu con trai tên Alan kia nhìn cũng chỉ hai mươi mấy tuổi, mặc dù đã trưởng thành nhưng nếu phải chết vào lúc này thì cũng còn quá sớm. Mà Joseph cũng đã trải qua đủ thứ chuyện để phải hối tiếc trằn trọc mỗi đêm, không cần tích thêm bất kỳ điều gì khác nữa.

“Đừng dại, em trai”, Cyrus xen vào. “Trong vùng này ai chẳng biết danh tiếng của hắn. Mày muốn chết lắm hay sao hả?”

Joseph vẫn giữ vẻ thong dong trên lưng ngựa nhưng đôi mắt lại nhìn chằm chằm Alan. Trong một cuộc đọ súng, quan trọng nhất là phải quan sát ánh mắt của đối thủ. Thông thường người chớp mắt trước sẽ là người từ bỏ cuộc chơi.

Alan chớp mắt.

Rồi cậu ta đi đến đứng cạnh bố và anh trai bên mái hiên.

Nét đặc trưng vốn có của nhà Pritchard bỗng dưng bị xáo trộn. Biết là David sẽ quan sát và trông chừng đằng sau mình, Joseph kéo Obie chạy nước kiệu ra khỏi khoảng sân đầy rác rưởi của nhà Pritchard. Khi đã an toàn ra khỏi tầm ngắm của mấy khẩu súng săn, hắn mới dừng con ngựa khiến nó quay một vòng, rút khẩu súng từ trong bao ra rồi tung người xuống khỏi lưng ngựa.

Trong khi David cưỡi ngựa rời khỏi ngôi nhà, Joseph vẫn quan sát kỹ lưỡng từng thành viên nhà Pritchard. Hắn sẵn sàng nổ súng nếu đánh hơi thấy bất kỳ mối nguy hiểm nào, nhưng vẫn hy vọng mình sẽ không phải làm thế. Cả Joseph và David đều kế thừa từ người anh lớn Ace một bài học, rằng không bao giờ được phép rời mắt khỏi địch thủ trừ khi có người mình tin cậy giúp trông chừng sau lưng. “Cũng không tồi đâu”, Joseph vẫn giữ cảnh giác thêm vài phút khi hắn và David cùng quay ngựa xuống đường Wolverine Road để tiến vào thị trấn.

“Em chẳng phát hiện được gì mấy.”

Joseph suy nghĩ một lúc. “Em biết được rằng Jeb Pritchard ghét cay ghét đắng con người Henry Hollister”, hắn chỉ ra, “và rằng lão thật vui mừng khi ông ta và gia đình gặp nạn. Anh thấy mấy điều này cũng khá có ích đấy chứ. Hơn nữa lão còn nói mong cho Rachel cũng chết giống như những người còn lại”.

David gật đầu. “Anh có tin được không? Cô ấy đã làm gì hắn chứ?”

“Cô ấy còn sống trong khi những người khác đã chết và điều đó khiến hắn khó có thể mua lại đất đai nhà Hollister.” “Cũng chỉ là một mảnh đất thôi mà. Có đến mức muốn người khác chết không? Sau này em có sống đến trăm tuổi cũng chưa chắc hiểu được đầu óc mấy người đó nghĩ cái gì.” “Cũng đúng”, Joseph tán thành. “Nhưng đời là thế mà, David. Có một số người sống trên đời mà coi mạng sống của đồng loại như cỏ rác. Chúng có thể giết người mà không bao giờ cảm thấy hối hận.”

David gật đầu, vẻ mặt nghiêm trọng. “Anh nghĩ là lão gây ra vụ nổ đó hả?”

“Ừ. Theo anh, chính lão ta là người đã cho nổ dòng Wolverine Creek.”

David nhấc mũ lau mồ hôi trên trán. “Nhưng làm thế quái nào chúng ta chứng minh được? Đó mới là vấn đề. Em không thể bắt giữ một người chỉ vì một giả thiết.”

“Đúng là không thể”, Joseph cười ranh mãnh, “nhưng em có thể chơi đòn tâm lý”. Hắn ngừng lại một lúc. “Anh nghĩ vài ngày sau em nên quay lại, cứ tiếp tục hỏi lão cùng một vấn đề, làm cho lão lúng túng. Nếu đúng là lão giết cả nhà Hollister thì năm năm nay ắt hẳn lão phải đắc chí lắm, làm chuyện lớn như thế mà vẫn không việc gì. Thử nghĩ mà xem, lão sẽ hoang mang thế nào nếu như cứ dăm bữa lại có cảnh sát đến gõ cửa tra hỏi về chuyện giết người năm đó.”

“Làm lão lo lắng thì giải quyết được gì?”, David hỏi.

Joseph thúc vào sườn Obie cho con ngựa chạy nhanh hơn. “Một người đang hoang mang sẽ rất dễ phạm sai lầm ngớ ngẩn, nhất là với những gã vốn dĩ không được khôn ngoan lắm như bố con lão.”

Rachel những tưởng mình có thể nhìn những con chó chơi đùa qua lỗ nhòm trên cửa sau, nhưng Ace Keegan lại đang ngồi ngay mái hiên ngoài đó, khung vai rộng và vành mũ cao bồi màu nâu che mất tầm nhìn của cô. Joseph nói Buddy có một người anh em nữa tên Cleveland hiện đang ở cùng với Ace và Caitlin và mỗi khi hai con chó gặp nhau là lại nô đùa không biết ngừng nghỉ.

Rachel đã đi lòng vòng quanh cái bàn trong nhà bếp phải đến ba mươi phút kể từ khi Ace vừa đến nhà, mối đe dọa từ lỗ hổng trên cánh cổng vòm đối với cô chưa bao giờ lại rõ ràng đến thế. Ace Keegan chọn ngồi ngay ngoài đó chẳng phải rất thiếu khôn ngoan sao? Ai đó có thể lách người qua ô cửa sổ Joseph đã phá để lẻn vào nhà. Sao hắn không ngồi ở chỗ nào đó gần ngôi nhà cơ chứ, như thế sẽ đảm bảo không một ai có thể vào bên trong.

Một vòng, lại một vòng. Rachel chẳng thể thoải mái nổi mà ngồi xuống đọc sách nữa. Cô tính làm món gì đó đặc biệt dành cho bữa tối, coi như để giết thời gian, nhưng như thế thì cô sẽ phải quay lưng lại phía cái lỗ hổng đằng kia. Không được. Cô cần phải sẵn sàng với khẩu súng săn cầm chắc trên tay, phòng khi có điều gì đó xảy ra.

Cô đi đi lại lại đến mức đầu óc quay cuồng, kiệt sức, vừa định ngồi xuống ghế bập bênh để canh chừng lỗ hổng thì nghe thấy một âm thanh lạ lẫm vọng lại từ phía trước ngôi nhà. Một tiếng cười lanh lảnh? Tóc gáy cô dựng đứng. Lại một tiếng nữa, theo đó là giọng cười khúc khích của phụ nữ và tiếng những bước chân, không phải loại âm thanh mơ hồ dọa người cô thường nghe thấy trước đó, mà là từng bước rõ ràng, trần trụi không hề che giấu.

“Raaaa-chel? Là Caitlin đây!”, một giọng nữ gọi với vào. “Caitlin O’Shannessy. Lúc Joseph nhờ Ace đến đây trông chừng ngôi nhà, chị không nhịn được phải nài nỉ anh ấy cho đến đây thăm em một lát.”

Caitlin? Rachel không tin nổi những điều mình vừa nghe được.

“Chị sẽ không vào trong đâu, chị hứa đấy, trừ khi em cho phép. Còn có bé trai nhà chị nữa.”

Chuyện này thật không thể ngờ. Thật đáng sợ. Chuyện này, ôi, lạy Chúa, chuyện này cũng tuyệt vời biết bao. Caitlin. Đã lâu lắm rồi Rachel chưa nhìn thấy chị. Ngoài trừ Darby và tối qua là Joseph Paxton, nhiều năm nay cô cũng chưa từng gặp mặt ai.

“Xin chào?”, Caitlin gọi. “Em có nghe thấy chị nói không, Rachel? Chị chỉ muốn thăm em một lúc thôi. Chị sẽ không vào trong đó hay làm bất cứ điều gì khác. Nhưng mà, chị không thể ra ngoài cùng với thằng bé cho đến khi em nói không sao.”

Rachel chẳng thể thốt nên lời. Chỉ riêng việc nghe thấy giọng một người phụ nữ thôi đã đủ làm cô choáng váng, mà đó lại là người bạn cô quen từ bé, bây giờ chỉ cách cô có vài bước ngoài kia thôi. Nước mắt trào ra từ hai khóe mắt, nhiều đến nỗi cô chẳng còn nhìn thấy được gì.

Caitlin. Chị có mái tóc đỏ hoe và trước kia thường mang những vết thâm tím khắp người. Chị luôn cố giấu những vết đó đi, nhưng dù có cố gắng đến mấy thì thỉnh thoảng vẫn bị mọi người ở trường nhìn thấy. Ai hỏi chị cũng một mực nói dối là bị tai nạn. Sự thật là cha chị, Conor O’Shannessy, là một người đàn ông nóng tính hay cáu bẳn, nghiện rượu nặng và thích dùng nắm đấm và cũng chẳng bao giờ quan tâm đến con cái.

“Xin chào?”, Caitlin lặp lại. “Chị muốn gặp em chết đi được, Rachel, nếu chỉ có mình chị thì chị thề sẽ ra khỏi đây ngay, nếu đó là điều em muốn. Nhưng còn thằng bé nữa. Joseph nói em có mang một khẩu súng săn đã lên đạn. Bé Ace, thằng bé rất dễ thương. Chị không đưa nó ra ngoài được nếu như không chắc là sẽ an toàn. Em hiểu chứ?”

Rachel cố cất tiếng nhưng bất lực. Caitlin. Chị là một phần quá khứ của cô, quá khứ đầy ám ảnh mà cô đã không còn thuộc về nhưng vẫn chẳng thể ngừng nhớ tới.

“Thôi được, không sao”, Caitlin lớn giọng cho cô nghe thấy. “Chúng ta sẽ chỉ nói chuyện thôi, được không? Không cần gặp mặt cũng được. Có điều chị vẫn phải nói trước, Bé Ace rất hiếu động. Nó đang vùng vẫy đòi xuống đất này, nếu chị thả thằng bé xuống và để nó chạy lung tung, em hứa là sẽ không bắn thằng bé chứ?”

Nước mắt chảy ướt gò má cô, cổ họng nghẹn lại khiến cô gần như không thể hít thở được. Rachel nghẹn ngào thốt ra một từ. “Không.” Giọng cô quá nhỏ và yếu ớt, cô nghĩ Caitlin sẽ chẳng thể nghe thấy.

“Ồ, vậy thì tốt rồi!”, Caitlin vui sướng thốt lên. “Thằng bé xuống đất rồi. Và, ôi, cu cậu chạy vụt vào hàng lang mất rồi. Đừng giật mình nhé, xin em đấy. Thằng bé nhanh quá chị không bắt kịp được, cái chân mũm mĩm mà cứ như lắp thêm cánh ấy. Nó đang... Bé Ace, đi ra khỏi đó. Mấy phòng dọc hành lang có thứ gì nguy hiểm với trẻ con không em?”

Giọng nói lo lắng của Caitlin khiến Rachel đi đến cạnh lỗ hổng, cô đang cố gắng nhớ lại chi tiết từng căn phòng dọc hành lang trước kia. Liệu có thứ gì có thể làm bị thương một đứa trẻ không nhỉ? Phải rồi, phòng may. Trong đó đầy thứ nguy hiểm. Rachel chẳng nhớ rõ lúc trước cô đã lấy gì ra khỏi phòng và vứt lại ngổn ngang thứ gì, nhưng thằng bé có thể sẽ vớ vài thứ nguy hiểm để nghịch nếu như cứ chạy lung tung trong đó.

“Đi kéo thằng bé lại, Caitlin!”, cô hét lên. “Tìm trong phòng đọc sách của bố hoặc phòng may của mẹ ấy. Trong phòng may toàn đồ sắc nhọn, kéo chẳng hạn. Cả kim nữa! Em chắc trong đó có rất nhiều kim.”

Tiếng bước chân hối hả vang lên dọc hành lang. Rồi cô nghe thấy giọng Caitlin the thé. “Đồ ngốc! Bố mà nhìn thấy con mặc cái đó thì sẽ thế nào hả? Cái đó là váy, con yêu à. Váy là dành cho con gái, con trai không mặc được.”

Rachel nhớ lại chiếc váy vẫn dở dang một nửa mẹ cô may trước khi mất. Bộ váy là cho Rachel, mẹ cô định may để cô mặc trong ngày tốt nghiệp hết cấp. Mắt cô lại đẫm lệ. Đau đớn. Suốt năm năm qua, cô đã phải cố gắng biết bao để khóa chặt những phần ký ức ấy, vì mỗi lần nhớ lại cô đều không chịu nổi. Nhưng chúng đâu có mất đi, chúng vẫn ở ngoài đó, bên ngoài hàng rào bao bọc cô, ẩn trong mọi ngóc ngách của ngôi nhà là những phần ký ức như muốn bóp nát tim cô mỗi lần nhớ lại.

Bàn tay Rachel nắm chặt cạnh gỗ lởm chởm trên lỗ hổng. Nhiều mảnh gỗ vụn cứng cắt vào ngón tay và lòng bàn tay cô. Cô đứng bất động tại đó, nhắm mắt, má đẫm lệ, từng bó cơ vì quá căng thẳng mà căng lên đau đớn.

“Pa?”

Cô mở mắt và rồi cô thấy, đứng ngay bên kia cánh cổng rào là một đứa trẻ mới chập chững biết đi, một bé trai lùn lùn mập mập với mớ tóc đen nhánh cùng đôi mắt sẫm màu to tròn, hai má ửng hồng và khuôn mặt cực kỳ ngây thơ. Bé con mặc áo sơ mi màu xanh không cổ, quần chẽn dài gần đến mắt cá chân,và đang toét miệng cười khiến trái tim Rachel dịu hẳn xuống.

“Pa, pa, pa, pa, pa!”, bé hét lên một tràng, rồi lại cười lộ ra mấy cái răng sữa trắng như sứ, hơi nham nhở hình răng cưa. “Pa, pa, pa, pa, pa!”

“Bé Ace, con quay lại đây ngay!”, Caitlin hét lớn, sau đó chị cũng xuất hiện ở ngưỡng cửa, ngập ngừng muốn bảo vệ con trai mình. Mái tóc đỏ đã được búi lên trên đầu, chị vẫn y như Rachel nhớ ngày trước, chỉ có điều lúc này vài sợi tóc dài xổ xuống đong đưa trước tai và vô số lọn tóc xoăn như muốn chỉa ra từ mọi ngóc ngách trên đầu chị. Kiểu tóc này đang là mốt chăng? Rachel thắc mắc. Hay là do chị quá bận rộn với thiên chức làm mẹ nên chỉ dành ra được dăm ba phút để chải chuốt mỗi ngày?

“Thằng bé biết bố nó đang ở hiên sau nhà em”, Caitlin nói không kịp thở. “Nếu em thấy không thoải mái, chị sẽ bế nó ra ngoài kia nhé.”

Đúng lúc ấy bé con lại giơ tay lên hướng về phía Rachel, cái mặt phúng phính sung sướng cười toét để lộ hai lúm đồng tiền xinh xinh trên má. “Pa, pa, pa, pa!”, thằng bé lại hét lên.

Không hiểu sao Rachel cũng đưa tay mình hướng về phía bé. Thằng bé lém lỉnh như chim hót, rạng rỡ như ánh mặt trời và nụ cười hồn nhiên kia nữa, thật đáng yêu làm sao. Lâu lắm rồi cô mới nhìn thấy điều gì tương tự thế này, một em bé còn búng ra sữa, làn da non nớt cứ sáng bóng lên. Ôi! Ôi! Trong đầu cô cứ lặp đi lặp lại từ đó, một niềm vui sướng khó tả. Niềm vui như được nhân lên gấp trăm lần khi cánh tay mềm mại, mũm mĩm của bé không ngần ngại quấn quanh cổ cô.

“Pa?”

Rachel khó có thể quan sát khuôn mặt bé qua làn nước mắt. Nhưng cô vẫn cố gật đầu và bế thằng bé đến sát cửa sau. Với giọng run rẩy xen lẫn nhiều cảm xúc phức tạp mà lúc đó chính cô cũng không biết phải định nghĩa thế nào, Rachel nói với bé: “Ba ở ngoài kia kìa”.

Bé Ace là một đứa trẻ thông minh. Bé liếc nhìn cái lỗ nhòm rồi ghé một bên mắt vào đó, liền lúc phát ra một tràng cười khúc khích.

“Pa, pa, pa, pa!”

“Đúng rồi”, Rachel xác nhận, “là ba đó”.

Bé con chọc một ngón tay vào cái lỗ, rồi như thể còn chưa thỏa mãn, nó vặn vẹo cổ tay để chọc ngón tay vào sâu bên trong. “Pa!”, thằng bé tự hào gọi.

Rachel mê mẩn đôi mắt nâu long lanh của bé. Thằng bé thật ngọt ngào, mềm mại và dễ thương, hệt như một phép màu nho nhỏ vậy. Cô nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ muốn để bé đi.

Nghịch ngợm cái lỗ một lúc, bé con bắt đầu thấy chán, cu cậu quay đầu lại háo hức nhìn chằm chằm Rachel, rồi lại cười khoe mấy cái răng cửa mới mọc và bất ngờ nói “Hi1!” với cô.

1Tiếng Anh: “Xin chào”. Người dịch muốn giữ cách gọi trong bản gốc để đảm bảo cách xưng hô tự nhiên nhất, cũng như thể hiện được diễn biến tâm lý của nhân vật.

“Hi” quả là một từ rất dễ thương, lâu lắm rồi cô không nghe cũng như nói với ai điều tương tự. “Hi”, cô khe khẽ đáp lại. “Chị xin lỗi. Thằng bé chạy còn nhanh hơn cả chị.” Rachel quay người lại. Đằng sau lỗ hổng là khuôn mặt của người bạn cô đã rất lâu không gặp. “Caitlin”, Rachel thì thầm.

“Ừ, là chị. Mong là em sẽ không thấy phiền vì chuyến viếng thăm này. Khi biết Ace sắp đến đây, chị đã cố xin anh ấy cho đi cùng. Joseph nghĩ em sẽ thích nếu chị đến chơi vì trước đó có nghe em kể về chị, nhưng chồng chị nhất quyết không cho.” Má Caitlin ửng hồng lên, cô phẩy phẩy tay. “Ace lo lắng vì khẩu súng săn. Anh ấy lúc nào cũng lo bảo vệ thằng bé, vậy nên chị bị bỏ lại ở nhà.”

“Vậy làm sao mà..?”

“Chị tự đánh xe ngựa đến”. Caitlin nói với một nụ cười tinh quái. “Ace không vui khi nhìn thấy chị đến đây, nhưng chị hứa sẽ cẩn thận nên cuối cùng anh ấy cũng phải đồng ý.” Caitlin đảo tròn mắt tỏ vẻ bất lực. “Cứ như thể em sẽ bắn chị không tha không bằng. Chị đã giải thích là chúng ta quen nhau từ nhiều năm trước và chị còn lâu mới tin mấy câu chuyện ngớ ngẩn họ tự thêu dệt ra, chuyện em bị …” Caitlin mở to đôi mắt xanh da trời rồi lại phe phẩy tay lần nữa. “Em cũng biết rồi đấy.”

“Điên đúng không?”, Rachel tiếp lời.

“Ừ thì, em cũng biết người ta nói thế nào mà. Chị chẳng thèm tin mấy chuyện tào lao đó. Thỉnh thoảng chị vẫn qua đây gõ cửa, khoảng tuần một lần.” Cô nhún vai. “Em chẳng khi nào trả lời, nên chị cứ thế để đồ lại ở hiên nhà.”

Mắt Rachel lại ầng ậng nước. Vậy người vẫn thường xuyên đến gõ cửa nhà cô suốt mấy tháng liền, sau khi tai nạn xảy ra chính là chị Caitlin. “Những cuốn sách”, Rachel thì thào. “Là chị mua cho em cuốn Tom Sawyer!”

“Em thích không?”

Rachel gật đầu, rồi bật cười vì bé con nhà Ace tò mò chạm vào vệt nước mắt ẩm ướt trên má cô. “Đó là một trong những cuốn sách em rất thích. Em không biết là chị mua tặng em. Lúc chị gõ cửa em có nghe thấy, nhưng rất sợ phải mở cửa. Cuối cùng vì quá tò mò nên em đã nhờ Darby làm một cái lỗ nhòm trên cửa, nhưng sau đó chị lại không đến nữa.”

“Trời ạ, sau đó chị kết hôn.” Caitlin lại đảo tròn đôi mắt xanh đáng yêu lần nữa. “Bận bịu chăm sóc chồng, rồi lo toan cho cả gia đình nữa. Nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa đủ thứ. Chị phải mất nguyên một năm đầu để làm quen với hoàn cảnh mới và dứt khỏi những thói quen buông thả thời con gái ấy.”

Rachel thả bé con đang không ngừng vặn vẹo xuống đất. Thằng bé thoăn thoắt phóng đi, nhắm thẳng phía cái túi đan móc của Rachel mà tiến tới.

“Bé Ace!”, Caitlin nạt. “Không được đụng vào đó!” Rachel vừa mới giải cứu được đám đồ trang trí của mình ở trong giỏ, quay lại đã thấy cu cậu ở chỗ bàn phòng khách, hai bàn tay mũm mĩm đang cố với lấy cái đèn. Cô chẳng biết phải diễn tả cảm xúc trong lòng lúc đó như thế nào, chỉ thấy mình hoàn toàn không thấy bực bội hay khó chịu vì cuộc viếng thăm này chút nào hết. “Ôi, Caitlin, thằng bé yêu quá đi mất.”

“Ừm, thằng bé này hiếu động lắm, hết chạy chỗ này lại chạy chỗ khác, đôi chân mũm mĩm mỗi phút chắc cũng phải đi được một dặm ấy chứ. Thằng bé là nguồn vui mỗi ngày của chị, em à.”

Đúng vậy, thằng bé cũng khiến trái tim Rachel thấy ấm áp hơn, làm dịu đi nỗi đau trong cô, dường như những sự trống trải, đau đớn trước đây chưa từng hiện hữu. Một đứa trẻ. Cô đã nhốt mình quá lâu giữa bốn bức tường trong sự cô độc và bé con với đôi má lúm đồng tiền là phép màu kỳ diệu nhất cô từng ao ước được nhìn thấy, còn tuyệt vời hơn cả ánh nắng mặt trời ngoài kia nữa ấy chứ.

Rachel ôm bé vào trong nhà bếp, mở cửa tủ đựng xoong chảo nấu ăn, rồi đặt bé Ace xuống đất ngay trước cái tủ.

“Nó sẽ lôi hết các thứ ra mất”, Caitlin cảnh báo.

“Chứ còn gì nữa”, Rachel đáp lại, bật ra một tràng cười mà đến cô cũng lấy làm lạ. Lúc này cô cảm thấy thật tuyệt vời và muốn cười cho thật thoải mái. Cô lấy ra vài chiếc thìa lớn bằng kim loại từ trong ngăn kéo sau đó dạy đứa trẻ cách khua khoắng đáy nồi như thế nào. Bé Ace rất thích thú với trò chơi mới, một lúc sau trong nhà bếp bắt đầu vang lên một loạt những âm thanh ồn ã inh tai.

“Ôi, trời. Đáng nhẽ chị không nên đến”, Caitlin nói. “Em sẽ mệt lả vì thằng bé cho xem.” Cô chà xát hai cánh tay qua làn vải của chiếc áo sơ mi ngắn đến eo màu xanh lá. “Áo choàng lúc Ace giúp trèo qua cửa sổ chị đã cởi ra mất rồi. Ước gì chị đã không làm thế, trong này hơi lạnh.”

Rachel đang đốt củi trong lò và có cả lò sưởi để làm ấm căn bếp, nhưng cô đoán bấy nhiêu đó cũng chẳng đủ để sưởi ấm đến tận phòng bên kia. “Chị có muốn vào đây không?”

Caitlin liếc mắt đánh giá lỗ hổng do vụ nổ súng tạo ra trên bức tường rào. “Em chắc là chị chui vừa không?”

Ý nghĩ làm Rachel run rẩy. Kể từ khi Darby bố trí xong chỗ ở cho cô đến giờ, cô chưa từng cho ai khác vào trong. Nhưng đây là Caitlin. Mặc dù chị lớn hơn cô bốn tuổi nhưng trước kia hai người cũng từng học chung một lớp ở trường và còn chơi với nhau khá thân thiết trong suốt giờ giải lao.

“Nếu chị kéo một cái ghế ra đặt ở đó thì sẽ dễ hơn”, Rachel gợi ý. Rồi cô vội vã tiến đến chỗ bàn ăn, nói: “Em cũng sẽ đặt một cái ghế ở bên này và sẽ cố giúp chị trèo qua”.

Vài phút sau, Rachel và Caitlin cười khúc khích hệt như hai cô nữ sinh. Lỗ hổng không lớn như trong tưởng tượng của Rachel, quanh viền của nó lại còn nham nhở hình răng cưa, chúng làm quần áo và tóc của Caitlin bị móc lại khi chị vặn người trong một tư thế kỳ cục, cố gắng chui qua cái lỗ.

“Chị bị kẹt rồi”, Caitlin thông báo.

Rachel vừa cười vừa kéo mạnh khuỷu tay Caitlin giúp cô chui người qua lỗ hổng.

“Mọi chuyện trong đó đều ổn cả chứ?”, một giọng nam trầm thấp gọi vào từ hiên sau.

Rachel hết hồn, còn Caitlin chỉ cười nói: “Ổn cả, anh yêu, mọi thứ đều ổn. Chắc chắn là ổn rồi”.

Nghe thấy giọng ba mình, Bé Ace chạy ào đến phía cửa, tay vẫn không ngừng khua khoắng cái nồi.

“Cái tiếng quái quỷ gì vậy?”, Ace Keegan hỏi.

“Đừng lo, anh yêu.” Caitlin giật giật vài sợi tóc vướng vào mép gỗ. “Chỉ là, ‘ui da’… Bé Ace đang nghịch cái nồi của Rachel.”

Đúng lúc đó Caitlin bất ngờ lọt hẳn qua lỗ hổng và lộn nhào vào Rachel. Khi đôi chân đã đứng vững được trên sàn nhà bếp, chị cười phá lên. Lúc sau, tiếng cười đã ngớt, chị cảm thán: “Chị không tin nổi là mình vừa làm được việc đó”, chị nói rồi ngó cái lỗ qua vai Rachel. “Vấn đề bây giờ là làm sao chị trở ra được đây.”

Cái đó để sau tính. Rachel vặn to lửa trong lò, đặt lên đó một bình cà phê mới rồi dọn ra mấy đĩa bánh ga tô vị đào tươi. Một lúc sau khi hai chị em đã yên vị trên bàn ăn, Caitlin hót như sáo, kể cho Rachel nghe đủ thứ chuyện từ giật gân đến tầm phào mà cô đã bỏ lỡ trong vòng năm năm trở lại đây.

“Còn nhớ Beatrice Masterson và Clarissa Denny không?”, Caitlin hỏi.

“Cái chị chuyên làm mũ và cô thợ may ấy hả? Dĩ nhiên là em nhớ rồi.”

“Ừ”, Caitlin nói bằng một giọng bí ẩn và hơi thấp trong khi xúc vài miếng bánh ga tô, “hai người đó đang tranh giành nhau lấy lòng Doc Halloway”.

“Thật sao?” Theo Rachel ước tính thì cả hai người phụ nữ ấy cũng đã luống tuổi, quá già để nảy sinh thứ tình cảm lãng mạng trẻ tuổi, nhất là với một người đàn ông lụ khụ đến còng cả lưng như Doc Halloway. “Đừng nói là chị kể với em nhé. Bình thường chị đều tránh hết mức việc đi rêu rao tin đồn. Tại em chẳng bao giờ ra ngoài, chứ còn nhiều việc em không biết lắm.” Cô nếm thử món bánh vị đào. “Lạy Chúa, Rachel, món này ngon kinh khủng. Cho chị bí quyết được không?”

“Cũng chỉ thứ này một ít thứ kia một ít thôi mà.” Caitlin cắn một miếng khác. “Ngon hơn chị làm nhiều.”

Chị nhấp một ngụm cà phê rồi nuốt miếng bánh xuống. “Để chị nghĩ xem nào. Còn chuyện gì giật gân xảy ra nữa nhỉ?” Chị mỉm cười tinh quái, tay cầm cái thìa bỗng chỉ về phía Rachel. “Hannibal St. John, vị mục sư mới.”

“Ngài ấy làm sao cơ?”

“Pauline Perkins phải lòng ngài ấy.”

“Pauline?” Pauline từ trước vẫn là một cô nàng thô kệch quá mức, cao, gầy giơ xương, nhưng lại cực khỏe. Cô ta có mái tóc vàng với từng lọn xoăn tít, khuôn mặt mụn dày đặc như tàn nhang. Cha cô ta, Zachariah Perkins là chủ tuần báo The Gazette của No Name.

“Vậy ngài ấy có đáp lại tình cảm của cô ta không?” Caitlin phá ra một tràng cười vang. “Không”, chị nói, giọng như hết hơi. “Nhưng Pauline không chịu từ bỏ. Tuần trước, cái này chị nghe được từ một nguồn rất đáng tin cậy nhé, cô ta dồn ngài ấy vào nhà kho trong nhà thờ rồi hôn ngài ấy.”

“Kể cả khi ngài ấy không muốn hả?”

“Ừ, mà còn tệ hơn ấy chứ. Charlene, mẹ cô ta bắt gặp cảnh đó và cũng hùa theo con gái mình. Bà ta buộc tội ngài Hannibal đã làm ảnh hưởng đến danh tiếng của cô con gái và yêu cầu ngài ấy phải lấy Pauline.”

Charlene Rayette Perkins có thể coi như một bản sao của Pauline lúc về già. Ngày trước, Rachel vẫn thường sợ sệt bà ấy vì vẻ mặt lúc nào cũng cau có và cách nói chuyện như muốn cắn xé người khác của bà.

“Rồi ngài Hannibal làm thế nào?”

“Dĩ nhiên là từ chối rồi. Ai mà muốn dây vào cái cô Pauline đó chứ?”

Rachel bật cười và lắc đầu. “Lạy Chúa, không đời nào. Chị ta ngày trước cứ thích đè ngã em vào giờ ra chơi. Em cũng chẳng ưa gì chị ta.”

“Ừ, cô ta tự hạ thấp mình mà cuối cùng vẫn không nhận được điều gì tốt đẹp. Ngài Hannibal là một người đàn ông rất khá. Đẹp trai, cao ráo, với mái tóc vàng hoe và đôi mắt xanh dương đầy thiện cảm.” Caitlin nháy mắt. “Không phải chị có ý gì đâu, em cũng hiểu mà. Trong mắt chị chỉ có Ace thôi.”

Rachel chẳng thể nhớ được trước kia có bao giờ chị được hạnh phúc như thế. “Anh ấy đối xử với chị tốt chứ, chị Caitlin?”

Caitlin nhìn Rachel với ánh mắt mơ màng. “Tốt với chị? Anh ấy coi chị như bà hoàng ấy, Rachel. Chị yêu anh ấy còn hơn cả cuộc sống này, thật đấy.”

Trên đường đến chỗ của Amanda Hollister, Joseph và David chọn đi đường vòng qua thị trấn bằng cách cưỡi ngựa qua những rặng cây bị tật nhìn như chổi gà, qua những thảm hoa cỏ dại mới chớm nở và nhiều dải đá dài đến ngán ngẩm.

Mùa xuân đang ùa về trong không khí, mặc dù những cơn gió tháng Ba hiện giờ vẫn còn đủ lạnh khiến hai người đàn ông không khỏi rùng mình. Joseph nhiều lần định quay người lấy áo khoác đang để sau yên ngựa, nhưng mỗi lần như thế cơn gió lại bất ngờ dịu đi.

Cổng chính trang trại của Amanda Hollister nhìn chẳng có gì là hoành tráng, chỉ có độc một dòng chữ mang tên bà, kế đó là từ “TRANG TRẠI”. Khi hai anh em men theo con đường đất tiến về phía ngôi nhà, Joseph nhìn bao quát một lượt diện tích đồng cỏ bên trong hàng rào, cố đoán xem đất đai của người phụ nữ này rộng bao nhiêu.

“Có vẻ như bà ấy cũng không có nhiều đất lắm”, hắn buông một câu nhận xét.

“Còn một phần tư đất nữa không có rào chắn”, David đáp lại. “Tối qua khi đến trụ sở tòa án em có nhìn qua chứng thư về bà ta, cả vài bản báo cáo lợi tức nữa. Em đang nghĩ câu chuyện về vụ xích mích giữa bà ta và Henry rất có thể là thật. Hẳn là phải khó chịu lắm khi bị chính em ruột của mình tước quyền thừa kế. Hai ngàn mẫu đất so với diện tích vỏn vẹn chỉ một trăm sáu mươi mẫu? Ngay cả khi có thêm phần đất mở rộng để chăn thả gia súc, em nghĩ đó vẫn là một vố rất đau nếu so với niềm hy vọng ngày nào đó sở hữu một phần trang trại rộng lớn mà bà ta đã cống hiến gần như cả cuộc đời.”

“Anh cá là ông bố nhà đó chắc sẽ chẳng thể mở rộng được mảnh đất ban đầu ra đến như thế này nếu như không có sự chung sức của mấy người con.”

“Nhà đó trước kia chỉ có hai người con là Amanda và em trai bà ấy, Peter James. Người mẹ tên Martha mất sớm ở tuổi hai mươi bảy, lúc ấy Amanda mới lên tám còn Peter thì lên sáu. Ông bố Luther không bao giờ đi bước nữa.”

“Vậy là chỉ còn lại Amanda và cậu em Peter giúp bố mình chèo chống trang trại.”

David gật đầu. “Theo lời ông Doc kể thì Peter thừa hưởng thể chất yếu ớt của mẹ, vậy nên phần lớn công việc đều đặt lên vai Amanda.”

“Thế nhưng cuối cùng quyền thừa kế trang trại lại hoàn toàn thuộc về người em?”

“Phải. Hơn nữa, Doc Halloway khăng khăng là Amanda sau đó vẫn hết lòng vì gia đình và tiếp tục làm việc tương đương một người đàn ông, bà gánh hầu hết những phần việc vất vả vì Peter vốn dĩ không được khoẻ mạnh cho lắm.”

Joseph lắc đầu. “Peter, ông ấy là bố của Henry Hollister, đúng không?”

David gật đầu. “Và ông ta cũng chỉ sống được thêm mười chín năm sau khi Luther mất. Lúc ông ta chết, hình như khoảng sáu mươi tuổi.”

“Và trong di chúc không để lại cho người chị cần mẫn của mình dù chỉ một đồng?”

“Không gì cả. Ông ta để lại hết tài sản cho con trai Henry và Amanda theo đó phải sống nhờ vào người cháu. Lúc đó, bà ấy đã sáu mươi hai tuổi, ngày càng già cả và không còn sức khỏe để làm việc như trước nữa. Cũng chẳng trách được khi bà ta yêu cầu Henry cấp cho mình một khoản thu nhập hằng tháng trích từ lợi tức của trang trại.”

“Nhưng ông ta từ chối.”

“Thẳng thừng luôn.” David nhún vai. “Sau đó bà ta chuyển ra ngoài và không còn qua lại với Henry nữa. Doc nói bà ta được người bà ủy thác một tài sản nho nhỏ, rồi dùng số tiền ấy để mua trang trại này.”

“Chẳng hiểu sao người ta lại có quan niệm trọng nam khinh nữ thế nhỉ?”, Joseph không thể tưởng tượng được. “Anh sẽ không bao giờ tách Eden ra mà không cho nó đồng nào.”

David cười toe toét. “Em cũng sẽ không, nhưng đấy là nếu anh em mình có của thừa kế. Em nghĩ hóa ra chúng ta cũng may mắn đấy chứ. Như thế, khi mẹ đi sẽ chẳng ai tranh giành ai cái gì. Tài sản của mẹ cũng là nhờ anh Ace mà có cả, theo lý thì anh ấy sẽ được thừa kế tất.”

Joseph ngẫm nghĩ câu chuyện một lúc. “Nghe em nói thì Henry Hollister có vẻ là một người khá ích kỷ.” Hắn vừa nói, trong đầu lại hiện lên nỗi đau đớn bắt gặp trong mắt Rachel. Hắn cảm giác Henry là một người đàn ông tốt bụng và là một người cha tuyệt vời. Gia đình đó bị cái gì mà hai lần đều chối bỏ quyền thừa kế chính đáng của một người phụ nữ - người thân ruột thịt đã tận tụy hết lòng như vậy?

“Chắc thế.” David đẩy vành mũ đón cái nhìn của Joseph. “Chỉ có điều, em nghĩ dù có tranh chấp thế nào thì bà ấy cũng chẳng thể nhẫn tâm với ruột thịt của mình như vậy được chứ? Phải biết là người chết không chỉ có Henry, còn cả vợ và các con ông ấy nữa, trong đó có một bé gái chưa đầy sáu tuổi. Lát nữa nói chuyện với Amanda chúng ta phải đặc biệt chú ý, xem bà ta có bất kỳ biểu hiện nào của người điên không. Nhỡ đâu anh nói đúng, máu điên chảy trong huyết thống gia đình đó chưa biết chừng.”

Tối qua, Joseph cũng đã cân nhắc khá kỹ điểm này, tuy nhiên hiện tại hắn vẫn còn phân vân chẳng biết phán đoán của mình có đúng hay không. Rachel đúng là không được bình thường mới chọn cách sống như thế, nhưng hắn cũng không tìm ra dấu hiệu nào khác chứng tỏ cô bị điên. Cô chỉ đang cố tìm kiếm sự an toàn bằng cách trốn thật kỹ, chẳng khác nào một con vật sắp chết đuối điên cuồng bấu víu vào mảnh gỗ trôi dạt trong dòng chảy xiết của con sông.

Trong gia đình hắn, tìm cách tồn tại chính là một trong những bài học vỡ lòng đầu tiên, bài học này Joseph đã sớm lĩnh ngộ và cả các anh em trai hắn cũng thế. Cái chết đột ngột của người cha đã khiến gia đình hắn phút chốc mất đi chỗ dựa lớn nhất, tiền bạc sau vụ lừa đảo đất đai cũng hết sạch không còn xu nào. Từ sau đó gánh nặng gia đình đều đặt cả lên vai Ace lúc đó mới mười một tuổi, bởi vậy gia đình hắn đã từng rất chật vật trước khi mọi việc bắt đầu khá khẩm hơn. Để tồn tại, bọn hắn phải học cách làm mọi việc, cũng giống như hoàn cảnh của Rachel bây giờ.

Đến cuối con đường, Joseph trông thấy ngôi nhà gọn gàng ngăn nắp đến không thể gọn hơn của Amanda Hollister. Ngôi nhà có những ô cửa sổ chớp màu xanh lá và một hàng hiên rộng kéo dài, trên đó đặt vài chiếc ghế mây nhìn rất thoải mái. Ở giữa là một chiếc ghế đu, thêm vào đó là nhiều chậu hoa được bài trí để đón ánh nắng mặt trời. Chẳng mấy ai trưng chậu hoa chưa có lấy một bông như thế này, nhưng ở bang Colorado là vậy. Anh sẽ chẳng cảm giác được mùa xuân cho đến khi nắng hè gần phủ xuống, mà hè cũng thường là vừa đến đã vội vã trôi đi.

Khi Joseph và David buộc ngựa vào cọc dọc theo thảm hoa trước hiên, họ thấy một người đàn ông đi tới từ góc ngôi nhà. Anh ta có vẻ là người làm thuê ở trang trại này, chiếc quần Levi’s lấm lem bụi bẩn từ chuồng gia súc, áo sơ mi không cổ màu xám đẫm mồ hôi dính sát vào người. Mái tóc màu nâu mật ong của anh ta ánh lên như đồng dưới nắng và gương mặt với những đường nét khá ưa nhìn giãn ra thành một nụ cười thân thiện chào đón hai anh em.

“Chào”, hắn ta gọi lớn. “Các anh muốn tôi giúp gì không?” Joseph và David nhìn nhau cười. Sau vụ tiếp đón ngoài mong đợi ở chỗ lão Pritchard, cả hai đều thấy thoải mái hơn với một lời chào thân thiện từ phía anh chàng này.

Đôi mắt xanh dương cuốn hút của anh ta dừng lại trên huy hiệu của David, hắn nhướng mày. “Ôi, thôi nào.” Rồi hắn giơ cổ tay mình ra. “Này còng lại và để nó kết thúc tại đây đi. Thế là tôi đã bị phát hiện mất rồi.”

David cười thích thú, sau đó giới thiệu mình và Joseph. Người làm thuê nói anh ta là quản đốc trang trại của Amanda Hollister, Ray Meeks.

“Trước kia chúng ta đã gặp nhau chưa nhỉ?”, Joseph hỏi khi bắt tay Meeks.

Ray nheo mắt suy nghĩ. “Theo tôi nhớ thì chưa. Nếu chúng ta có gặp thì chắc chắn tôi phải nhớ rồi.”

“Tôi trông anh thế nào đấy, rất quen.” Joseph nói. Meeks nhún vai và mỉm cười. “Có thể chúng ta gặp nhau ở trong thị trấn. Tôi đối với anh hình như cũng có chút ấn tượng thì phải.” Anh ta giơ ngón cái móc móc ra sau vai. “Bà Hollister đang ở đằng sau.” Rồi anh ta ra hiệu cho David và Joseph đi theo mình. “Nếu muốn nói chuyện với bà ấy, hy vọng các anh sẽ không phiền khi phải dính một chút bụi bẩn. Chúng tôi đang thuần vài con ngựa và bà ấy cứ khăng khăng muốn giám sát.” Ném lại một nụ cười thiện ý, hắn tiếp lời: “Chúa phù hộ bà ấy. Đáng nhẽ bà ấy nên dời những con ngựa để huấn luyện cho chúng tôi mới đúng, mà bà ấy có chịu nghe đâu”.

Joseph chẳng biết nên chờ đợi điều gì tiếp theo. Thực tế Amanda Hollister có động cơ để giết Henry và gia đình ông, cả động cơ để muốn Rachel phải chết nữa, thế nên hắn cứ nghĩ bà ta phải là một bà già ác độc với đôi mắt tính toán thiệt hơn cùng cái mũi mọc đầy mụn cóc.

Nhưng trái với suy nghĩ của hắn, khi bọn họ tiến về phía khu thuần ngựa, hắn ngạc nhiên thấy bà ấy giống hệt bản sao của Rachel nhưng già cả hơn rất nhiều. Một người đàn bà nhỏ nhắn, mảnh dẻ tầm bảy mươi tuổi với ngũ quan tinh tế, đôi mắt xanh da trời to và có chiều sâu, phần tóc búi đã bạc trắng nhưng vẫn dễ dàng nhận ra trước kia nó có màu vàng óng. Chứng tê liệt nặng khiến toàn thân bà run rẩy. Amanda Hollister đang ngồi trên xe lăn đối diện với bãi quây súc vật, đầu bà hơi cúi xuống nhìn qua các chấn song bằng gỗ, chiếc váy cưỡi ngựa có ống phủ lên hai chân đang giạng ra vì tư thế thiếu nữ tính của bà. Tay nắm chặt thành nắm đấm, bà vừa đập tay xuống tay vịn bên hông của chiếc xe lăn vừa la mắng.

“Đừng có mà quăng đi quăng lại cái thòng lọng vào nó nữa, đồ ngu! Anh sẽ làm nó sợ rồi cả đời khúm núm như một con ngựa cái mất!”

Joseph tán thành, thằng cha đó đúng là ngu thật. Đuổi dồn con ngựa đang khiếp đảm xung quanh khu đất, gã làm thuê liên tục quăng cái dây thừng cứng đét như cây roi quất vào phần mũi nhạy cảm và mông con vật. Con ngựa hoang đáng thương chùn bước rồi bấn loạn bỏ chạy, điên cuồng vùng vẫy để trốn thoát.

Cảnh đó khiến Joseph sôi máu, hắn muốn đá một phát vào mông gã cao bồi ngu xuẩn kia ngay lập tức. Đáng tiếc, ở vùng này, những tay thuần ngựa bất tài đông hơn những người có khả năng huấn luyện ngựa một cách thuần thục rất nhiều, mà hậu quả thì chỉ tội cho những con ngựa đáng thương phải gánh chịu mà thôi.

Những kẻ thiếu kinh nghiệm nghĩ cứ vào chuồng ngựa là có thể dễ dàng bắt chước được kỹ thuật của các tay thuần ngựa lão luyện, nhưng thuần hóa một con ngựa hoang là chuyện không đơn giản chút nào. Ngựa là loài động vật to lớn và rất mạnh mẽ, chúng có thể trở nên nguy hiểm nếu bị dồn ép quá mức. Có thể thuần hóa thành công một con ngựa bắt buộc phải là người dày dặn kinh nghiệm, nắm được một loạt thủ thuật nho nhỏ, có khả năng phán đoán tốt và phải giàu lòng thương yêu động vật.

Amanda Hollister đứng lên khỏi chiếc xe lăn. Cả người bà run lên bần bật đến nỗi khó đứng vững, bà chậm chạp tiến về phía các chấn song. “Cút ra. Nếu anh tra tấn con vật một lần nữa, tôi thề sẽ lấy roi quất thẳng vào mông anh đấy.” Bà quay sang người quản đốc tên Ray Meeks. “Cắt lương gã ngu xuẩn này. Tôi không muốn nhìn thấy anh ta trong trang trại của mình lần nào nữa.”

Ray nhìn gã huấn luyện non nớt với vẻ có lỗi, rồi ra hiệu cho hắn rời khỏi khu thuần ngựa. Joseph nhận ra và tự hỏi tại sao Meeks lại có vẻ mặt như thế. Khi một người không thể làm việc mà người khác thuê hắn làm, nếu như có may mắn nhận được chút lương thì cũng phải cảm ơn cả tám đời tổ tông nhà đó, mà chính hắn còn phải xin lỗi người ta, chứ đừng nhắc đến việc người đi thuê cảm thấy có lỗi vì đã sa thải mình.

Amanda Hollister vẫn không hay biết về sự xuất hiện của mấy người khách, bà vịn tay vào một chấn song để đứng vững, rồi quan sát một lượt những gã đàn ông đang vây quanh khu thuần ngựa, vài gã ngồi vắt vẻo trên chấn song trên cùng, số còn lại đứng dựa người vào hàng rào. Joseph chẳng thấy ai trong số đó nhìn có vẻ nhanh nhẹn. Ở chỗ hắn, mấy người làm thuê đều phải bận rộn cho đến khi tối mờ. Nhưng hôm nay là thứ Bảy. Có lẽ là ngày nghỉ và họ không muốn vào thị trấn ngay hôm nay.

“Có ai ở đây biết thuần ngựa không hả? Hay tôi phải tự làm lấy?”, Amanda hỏi.

Chẳng ai trả lời. Đúng lúc đó Amanda nhìn sang phía Joseph. Không có lấy một lời chào hỏi, bà ta nói với hắn: “Anh nhìn cũng giống một tay chăn ngựa đấy. Anh có biết tí gì về thuần ngựa không?”.

Joseph ném cho David một cái nhìn hoài nghi, rồi hắn bỏ mũ ra đưa tay lên gãi gãi đầu. “Tôi có biết một chút.”

“Đừng khiêm tốn, anh bạn trẻ. Một chút là bao nhiêu?”

Joseph suýt nữa cười toe toét. Thế quái nào mà hắn lại không thích bà già này được cơ chứ. Tính khí bà ta khá ngổ ngáo, mà hắn thì luôn thích những người như vậy. “Tôi gần như lúc nào cũng làm việc với lũ ngựa.”

“Được rồi, đừng đứng đó mà khoe mẽ nữa. Đi làm việc đi.”

Điều tiếp theo Joseph biết là hắn đang ở trong khu đất quây với con ngựa. Mặc dù mới làm quen với công việc chăn thả gia súc, nhưng Joseph biết khá nhiều về ngựa và đặc biệt yêu quý loài động vật này. Khi còn là một cậu bé mồ côi cha ở San Francisco, hắn đã đi chăm sóc ngựa thuê cho đến khi Ace học được chút mánh khóe cờ bạc và thắng kha khá. Sau khi chi trả hết các khoản tiêu pha trong gia đình, Ace dành một phần tiền vào ngựa, một trong những đam mê lớn nhất của người cha dượng của anh. Vậy nên tuổi thơ của Joseph ngoài những lúc đi học, thì hầu hết thời gian đều dành cho những con ngựa giống như bất cứ cậu trai vùng Virginia nào.

Công việc đầu tiên là làm sao để con vật chịu đứng yên, cái này cần một chút mánh khóe. Không bao giờ được đánh con vật, Joseph quay cái thòng lọng một lúc đủ lâu với độ chính xác và chút kỹ thuật chỉ nhằm mục đích rút ngắn bán kính di chuyển của con ngựa đến thấp nhất, cho đến khi nó chỉ có thể đứng yên một chỗ. Một tiếng chật vật dành cho cả hắn và con ngựa hoang.

“Như vậy là quá đủ cho ngày hôm nay”, hắn nói với Amanda Hollister trong khi vắt một chân qua chấn song để ra ngoài. “Nó mệt nhoài rồi.”

Amanda đã ngồi lại trên ghế, nghiêng nghiêng đầu nhìn con ngựa hoang. “Đúng, kiệt sức, nhưng không bị hoảng sợ. Nó bắt đầu hiểu anh đang muốn nó làm gì rồi đấy.” Bà hướng đôi mắt xanh dương đẹp và sáng về phía Joseph. “Làm rất tốt, anh bạn trẻ ạ. Anh muốn được trả bao nhiêu?”

Joseph đập cái mũ vào ống quần để phủi bụi, sau đó đội lại lên đầu, đáp: “Tôi không làm thuê, thưa bà”.

“Không ai ở đây bì được với anh cả.”

Joseph liếc nhìn khu đất quây gần đó với một tá ngựa hoang chưa thuần hóa. “Tôi ước mình có thể nhận thử thách này, nhưng tôi còn có một trang trại và những con ngựa đang chờ được thuần hóa ở đó.”

Ánh mắt bà sáng lên vì thích thú. “Trang trại của anh ở đâu?”

“Phía bắc Circle Star.”

“Đất đẹp đấy”, bà nói. “Anh sẽ nhanh phất lên nếu như chịu đổ mồ hôi cho nó.”

Joseph gật đầu. Bà ta hẳn là rất quen thuộc với vùng đất quanh đó rồi. Trang trại Hollister tiếp giáp ngay phía bắc chỗ đó.

“Mồ hôi rẻ không mà.”

Ánh mắt sắc bén tinh anh của bà ta chuyển sang nhìn chằm chằm vào huy hiệu trên ngực David. “Cảnh sát trưởng”, bà ta cảm thán thay cho một lời chào hỏi, rồi giơ một bàn tay xương xẩu ra. “Tôi có thể hy vọng đây là một cuộc viếng thăm bình thường không?”

David bước lên bắt tay bà. “Tôi chỉ muốn nói chuyện với bà một lúc nếu bà có thể dành chút thời gian.”

“Thời gian đối với tôi là một thứ hàng khá hiếm đấy, tuy nhiên, chỉ một lúc thôi thì cũng có thể chấp nhận được.” Bà ta quay qua mỉm cười với Joseph.

“Có qua có lại. Hôm nay chắc mấy kẻ ăn không ngồi rồi kia cũng học được chút ít. Con ngựa thì khỏi phải nói rồi. Nào, vào nhà đi. Tôi sẽ đun chút cà phê và nướng một ít bánh quy nhé.”

Amanda Hollister khá vất vả khi điều khiển chiếc xe lăn di chuyển trên mặt đất gồ ghề, bàn tay run rẩy vì chứng viêm khớp của bà gần như không thể nắm được vào bánh xe. Joseph giúp đẩy chiếc xe qua tay cầm phía sau. Với một cú huých chân, hắn đẩy bánh xe ra khỏi chỗ lầy, chiếc xe và hành khách trên đó bắt đầu xóc nảy khi tiến vào trong nhà. Giọng bà run lên khi nói chuyện, hắn không rõ là do con đường gồ ghề hay do chứng tê liệt.

“Tôi còn chưa biết tên anh”, bà nói. “Thứ lỗi cho thái độ của tôi lúc nãy nhé. Anh gặp tôi chẳng đúng lúc gì hết.”

“David Paxton.”

Bà gật đầu rồi liếc nhìn Joseph. “Vậy còn anh?”

“Joseph Paxton. Chúng tôi là anh em.”

“Và hai người chắc đã biết tên tôi, nếu không thì các anh đã chẳng ở đây, phải không nào?”

“Vâng, thưa bà”, David trả lời.

“Ồ, rất vui được gặp hai người.” Bà rời khỏi chỗ ngồi. “Vậy, anh Joseph Paxton, anh có bao nhiêu mẫu đất?”

“Một ngàn hai trăm tám mươi.”

“À, vậy là trọn vẹn hai phần. Khởi đầu như thế là khá đấy. Ở đây tôi chỉ có một trăm sáu mươi mẫu, nhưng thêm phần diện tích chăn thả mở rộng cũng đủ để ngăn sói vào nhà.” Bà thở dài, rồi lại mỉm cười. “Một thời gian nữa anh sẽ có thể mua thêm nhiều đất, Joseph ạ. Ở vùng này, hai phần đất là đủ để kiếm sống, nhưng nếu muốn khá hơn anh phải mở rộng diện tích ra.” Bà vẫy vẫy bàn tay gầy guộc nổi đầy gân xanh. “Đừng lo. Có người chăm chỉ thì cũng có kẻ lười biếng, mà lười biếng thì không thể tồn tại ở đây, trong môi trường khắc nghiệt đòi hỏi phải lao động vất vả như thế này.”

Ấn tượng ban đầu của Joseph về người phụ nữ này vẫn không thay đổi. Hắn không thể không thích tính cách của bà. Tự dưng hắn ước mình không phải gặp bà trong hoàn cảnh này, với mục đích chất vấn bà về cái chết của gia đình Hollister và vụ Darby bị bắn lén ngày hôm qua, như thế bọn họ sẽ có thể cùng nhau trao đổi về kỹ thuật chăn nuôi. Hắn cảm giác chỉ một ngón tay của bà thôi cũng chứa đựng nhiều kiến thức lẫn kinh nghiệm hơn tất cả các bộ phận trên cơ thể to xác của hắn cộng lại.

Trong khi bà bận rộn pha cà phê, bầu không khí trong nhà cũng đỡ gượng gạo hơn hẳn. Amanda ngồi lại trên ghế, nhìn David hồ nghi và nói: “Vậy, anh bạn trẻ, đến lúc nói ra mục đích của chuyến viếng thăm này rồi đấy. Tôi có thể giúp gì cho anh?”.

David ngồi trên chiếc sô-pha bọc da màu đỏ, người hơi đổ về đằng trước, cậu cong khuỷu tay tựa vào đầu gối, các đầu ngón tay chạm vào nhau theo hình chữ V.

“Bà đã nghe đến vụ nổ súng ngày hôm qua chưa?”

“Nổ súng?” Amanda liếc nhìn Joseph. “Không, tôi chưa nghe thấy ai nói gì cả. Có phải tối qua người của tôi đã lên thị trấn gây rối không?”

“Không, thưa bà”, David trả lời. “Chiều qua Darby McClintoch đã lần theo một con bò đi lạc. Ông ấy tới rìa phía bắc trang trại Hollister, vị trí giữa dải đá và con lạch. Có người đã núp sau những tảng đá và bắn lén vào lưng ông ấy.”

Sắc mặt Amanda bỗng chốc trắng bệch, Joseph còn sợ bà có thể sẽ ngất đi. Thay vào đó, bà rướn thẳng lưng, hơi hếch cằm và nhắm mắt lại vài giây ngắn. “Darby”, bà nói khẽ. Hàng mi của bà run rẩy. “Ông ấy đã chết...?”

“Không, không, ông ấy không chết”, David vội vã giải thích. “Ít nhất thì vẫn chưa. Doc đã khâu miệng vết thương và nghĩ là ông ấy sẽ có nhiều khả năng hồi phục lại.”

“Tạ ơn Chúa.” Amanda đưa một bàn tay run rẩy lên che mắt. “Darby và tôi quen biết nhau cũng khá lâu. Ông ấy làm việc cho cha tôi ở phía nam trang trại, khi tôi vẫn còn là một cô bé. Hy vọng ông ấy sẽ qua khỏi. Thế giới này sẽ thật chán chường nếu không có ông ấy.”

David gật đầu. “Ông ấy là người tốt. Vấn đề là, Darby không rõ kẻ nào đã bắn mình.”

Amanda nhìn lại với ánh mắt sắc bén. “Và anh nghĩ là tôi biết.”

Đó không phải là một câu hỏi và ánh mắt bà bỗng dưng trở nên dè dặt.

“Tôi hy vọng bà có thể đưa ra vài gợi ý”, David phân trần. “Chuyện xảy ra gần như ở đúng chỗ mà trước đây Henry và gia đình ông ấy bị tấn công. Darby cứ khăng khăng rằng hai việc có liên quan đến nhau.”

“Và bởi vì tôi là nghi phạm lớn nhất năm năm trước, nên giờ anh mới quay lại đây để làm phiền tôi một lần nữa.”

David đưa tay lên giảng hòa. “Tôi không phải đến đây để buộc tội bà bất cứ điều gì, bà Hollister. Chỉ là muốn hỏi xem liệu bà có thể cung cấp tin tức nào không. Bà có nghĩ Darby nói đúng? Rằng hai vụ việc có mối liên quan nào đó?

Và nếu có, liệu bà có biết ai ghét Henry đến mức phải giết ông ấy không?”

Amanda nghiêng người về phía trước với cốc cà phê đã được rót đầy một nửa. Bàn tay bà run rẩy, suýt nữa làm sánh vài giọt ra ngoài trước khi kịp đưa lên miệng hớp một ngụm. “Nếu tôi biết, anh có tin tôi chịu giữ kín sự thật trong suốt năm năm qua?” Đôi mắt xanh của bà đầy ắp nỗi tức giận, bà cáu kỉnh đặt chiếc cốc trở lại đĩa, làm một tiếng lách cách lớn vang lên. “Tôi có vấn đề với cháu trai tôi. Tất cả mọi người ở cái thung lũng này đều biết. Nhưng vấn đề đã chấm dứt từ khi tôi tuyên bố tuyệt giao với nó. Vợ nó, Marie là một đứa xinh xắn đáng yêu, tôi coi nó như cháu gái và tôi yêu bọn trẻ, đặc biệt là Rachel. Nếu biết kẻ nào đã nổ súng vào gia đình nó, tôi đã tự mình đi lùng giết hắn từ lâu rồi.”

Joseph quan sát gương mặt Amanda Hollister, mong mỏi sẽ thấy dấu hiệu của sự giả dối, nhưng lại không tìm ra được. Bà thực sự yêu Marie Hollister và bọn trẻ. Hắn không hề nghi ngờ gì về điều đó.

“Tôi hoàn toàn đồng ý rằng đó là một tội ác đáng ghê tởm”, David nói. “Và làm ơn, đừng nghĩ tôi có ý gì. Tôi chỉ đang cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Có người bắn lén sau lưng Darby và tôi nhất định phải tìm ra kẻ đó.”

“Bởi vậy nên anh chạy đến truy vấn kẻ tình nghi lớn nhất sau cái chết của Henry Hollister?

Amanda quay chiếc xe lăn lại rồi rời khỏi bàn tiếp khách đang bày cà phê và bánh quy trong phòng đọc.

“Tạm biệt, các quý ông. Các vị tự biết đường ra rồi đấy.”

David quýnh lên. “Đợi một chút, bà Hollister!”

“Để bị sỉ nhục tiếp hả?” Bà vật lộn xoay chiếc xe. “Không một mảnh đất nào trên trái đất này đáng để bị tưới máu, anh cảnh sát ạ. Giờ thì làm ơn ra ngoài cho. Các anh không còn được hoan nghênh ở nhà tôi nữa.”