Ba mươi phút sau, khi Joseph vừa đút nửa miếng bánh quy mềm phủ bơ vào miệng, hắn phải thừa nhận là nó ngon hơn bất cứ món bánh nào trên đời và chợt nhận ra rắc rối của mình nằm ở đâu. Bởi vì, hắn đã tìm thấy một người phụ nữ hoàn hảo.
Tuy nhiên, phát hiện này chẳng khiến hắn vui vẻ gì nhiều. Hắn không cần một người đàn bà. Mà không, hắn cần đàn bà. Có thằng đàn ông tâm sinh lý bình thường nào lại không cần đàn bà cơ chứ? Có điều, hắn muốn không phải chỉ một. Hắn thích thật nhiều đàn bà, những cô đầy đặn, những cô mảnh mai, những cô ngực to cũng như ngực nhỏ, những cô cao lớn hoặc nhỏ nhắn, sôi nổi và u buồn. Luôn luôn là số nhiều.
Nhưng vừa nhìn thấy Rachel, hắn lập tức quên béng mất cái quan điểm số nhiều đó. Cô quá đẹp, quá ngon lành, hoàn hảo đến không tưởng, với những món ngon khó cưỡng, biết chơi poker và lại còn yêu chó nữa chứ.
Giống như cô được sinh ra để chụp bẫy hắn vậy.
Hắn chậm rãi nhai và dán mắt vào mông cô. Chắc chắn cái kiểu cong người như thế kia là cố ý. Hắn biết cô cố ý làm vậy. Chẳng có người phụ nữ đoan trang nào lại phơi bày bộ mông của mình trước mặt đàn ông như thế kia, chỉ để mở cửa lò nướng, rồi lau sạch một chút mỡ nhỏ giọt. Cô lại còn đung đưa ngay trước mũi hắn nữa chứ. Thế có khác nào một lời mời trắng trợn? Nào, lại đây mà thưởng thức em đi. Hắn đâu có dại. Đằng sau lời mời mọc đó là hôn nhân, là trách nhiệm và không còn chơi bời cả đêm vào mỗi tối thứ Sáu nữa.
Hắn đang rất, rất cần một buổi tối ở thị trấn. Mùa gia súc sinh sản đã giam hắn ở nhà gần tháng nay rồi và cơ thể hắn đang căng cứng, gào thét đòi được giải phóng. Thế nên mông cô nhìn mới hấp dẫn đến thế, bởi vì hiện tại, hắn có thể nổi hứng với bất kỳ người phụ nữ nào.
Hắn nhét nốt nửa cái bánh quy còn lại vào miệng, nhai ngấu nghiến và cắn cả vào má. Đau, hắn cáu kỉnh bật ra một tiếng chửi thề, “Chết tiệt!”.
“Ôi trời! Có chuyện gì vậy?”, Rachel cùng với cặp mông hấp dẫn của mình bổ nhào về phía bàn ăn. “Tôi cho nhiều bột nở quá sao?”
“Không phải, tại cái răng của tôi bị đau.” Chẳng hiểu hắn nghĩ đâu ra cái lý do đó, nhưng để nói dối cô thì cũng tạm chấp nhận được. “Bánh quy rất ngon.”
Đôi mắt xanh to tròn nhìn hắn đầy lo lắng. Joseph tự hỏi, liệu có phải cô đã luyện tập trước gương rất nhiều lần, nên mới có được biểu cảm ngọt ngào đáng yêu đến thế này không.
“Tôi có cách trị nó đấy”, cô nói rồi chạy vào nhà tắm. “Bông gòn tẩm dầu cây Cajeput. Tôi có sẵn vài cuộn lấy từ chỗ người bào chế thuốc. Darby thỉnh thoảng cũng bị đau răng như thế.”
Joseph im lặng giải quyết nốt bữa ăn. Hắn ăn sạch, chỉ bỏ lại hai lát thịt lợn muối trên đĩa, sau đó đứng dậy, ném hai miếng thịt cho con Buddy rồi đi đến bồn rửa.
“Cứ để đĩa đấy, không phải bận tâm đâu”, cô nói. “Giờ ngồi lại đây để tôi xem cái răng của anh thế nào nào.”
Khó xử rồi đây. Thực ra răng của hắn chẳng vấn đề gì, nhưng nói thật cho cô biết thì chẳng khác nào thú nhận hắn đã bịa chuyện. Chẳng biết nên làm thế nào, hắn đành ngồi xuống.
Cô chạy đến lởn vởn xung quanh hắn và bảo hắn há miệng ra. “Cái nào bị đau?”, cô hỏi.
Mùi hương hoa hồng làm hắn ngây ngất, khi cô cúi sát xuống và luồn bàn tay mảnh mai ra sau đỡ lấy đầu hắn. “Hô õ”, hắn đáp, vật lộn để phát âm cho chuẩn với cái miệng đang há rộng.
“Cái gì?”
Một bên ngực cô đã gần sát người hắn. Hắn ngậm miệng nói lại, “Tôi không rõ”.
“Ồ, không sao. Há rộng ra nào, để tôi xem nó ở đâu.”
Giờ thì hắn đau thật, nhưng lại đau ở một chỗ chẳng liên quan gì đến miệng cả. Old Glory của hắn đã cứng ngắc và bắt đầu giật giật. Hắn há miệng và ngửa đầu ra sau. Cô cong người xuống, nhìn vào trong khoang miệng, phần áo xếp li trước ngực cô sượt qua cằm hắn, sau đó một bên ngực mềm mại, ấm áp của cô tìm được chỗ dựa trên vai hắn. Chúa ơi, đời hắn chưa bao giờ khao khát một người đàn bà nào nhiều như lúc này.
“Đây rồi”, cô thông báo với hắn. “Ồ, đúng rồi, tôi nhìn thấy chỗ bị sâu rồi này. Anh nên đi gặp bác sĩ đi, Joseph ạ. Tôi nghĩ chắc phải hàn lại.”
Lông mày hắn nhướng lên ngạc nhiên, nhưng không nói được, vì ngón tay của cô còn đang ở trong miệng hắn. Một mùi khó chịu xộc lên mũi hắn, lấn át hẳn mùi hương hoa hồng từ cơ thể cô. Tận sâu trong cổ họng, hắn có cảm giác bỏng rát như bị đốt cháy.
“Được rồi đấy”, cô thỏ thẻ. “Cắn xuống nào.”
Hắn nghe lời, cắn xuống miếng bông gòn, ngay lập tức, một cơn đau buốt óc lan rộng trong hàm hắn. Hắn bật người khỏi ghế nhanh đến nỗi suýt chút nữa thì xô ngã cả Rachel. “Á! Ôi, chết tiệt!”. Hắn vội vã thọc một ngón tay vào miệng, móc miếng bông ra, sau đó chạy về phía bồn rửa, bắt đầu nhổ nước bọt liên tục. “Cái quái gì thế hả? Á, chết tiệt! Đau quá”.
“Sẽ chỉ đau một lúc thôi mà.”
Nói thì dễ lắm. Cô có phải chịu cơn đau chết tiệt từ hàm buốt lên đến tận óc như hắn đâu. Từ bé đến giờ, hắn chưa bị đau răng hay sâu răng gì hết, nhưng nhờ có cô, giờ hắn bị nặng thật rồi. “Cô biết là nó sẽ đau hả? Chết tiệt, sao không nói trước với tôi?”. Hắn chọc chọc nhẹ cái răng. Sâu răng ấy hả? Hắn luôn tự hào vì mình có hàm răng hoàn hảo. “Đau khủng khiếp. Tôi có một cái răng sâu thật rồi đây này.”
“Anh cần phải giữ miếng bông đó thêm vài phút nữa, thật đấy.”
Joseph vốc một ít nước lên súc miệng. Cuối cùng cơn đau cũng đã giảm bớt. “Không, cảm ơn. Chữa còn đau hơn không chữa ấy.”
“Nhưng như thế mới có tác dụng”, cô cố thuyết phục hắn. Cơn đau đã dứt, ở tất cả các bộ phận trên cơ thể hắn, Joseph chùi miệng vào ống tay áo sơ mi, rồi quay người lại nhìn cô đầy cảnh giác. Old Glory của hắn cuối cùng cũng xìu xuống và an phận dưới lớp vải quần. “Đã đỡ hơn rồi”, hắn cam đoan với cô.
Rachel nở một nụ cười hạnh phúc. “Đó, anh thấy chưa? Lần nào Darby bị đau răng cũng đều trị như thế mà.”
Joseph đã quen ngày nào cũng phải luôn chân luôn tay nên không chịu được cảnh cứ phải ngồi mãi một chỗ, vậy nên, hắn quyết định giúp Rachel làm bếp. Bánh mì và bơ trước kia hắn đã làm vô số lần, nhưng pho mát thì đây là lần đầu tiên.
“Cái này cũng thú vị đấy”, hắn nhận xét khi trông chừng một nồi sữa lớn đang đun trên bếp lò, còn Rachel thì đang bận rộn tíu tít xung quanh hắn. Cô đã cho vào nồi sữa một phần tư thìa chất mồi và trong khi chờ sữa chín tới họ tranh thủ khuấy bơ. Bây giờ hỗn hợp sữa sẽ phải được đun nóng tới một nhiệt độ nhất định, sau đó, cô sẽ cho vào nồi chất lên men để làm nó đông đặc lại. “Cái này lúc làm xong sẽ có vị gì nhỉ?”
Cô nhẹ nhàng cười. “Ừm, tôi hy vọng nó sẽ có vị giống với món pho mát dày.”
Hắn bật cười. “Ý tôi là lúc nó chưa lên men đủ cơ.” “Pho mát khi chưa đủ độ sẽ không ngon lắm, chỉ là một hỗn hợp sữa đông đặc đã được rút hết nước và có vị hơi mặn thôi.”
Rachel nhìn nồi sữa xem đã đủ độ nóng chưa, rồi cho thêm một ít chất lên men đã hòa tan trong nước. Khuấy một chút, họ nhấc nồi sữa đặt bên cạnh bồn rửa. “Giờ chúng ta phải chờ khoảng bốn mươi lăm phút nữa cho đến khi sữa đông lại.”
Một lần nữa, Joseph lại chẳng biết làm gì ngoài ngồi nghịch ngón tay cái của mình. William Shakespeare nói đúng, hắn kết luận. Mơ mộng là con đẻ của những cái đầu nhàn rỗi. Vì thế, lúc này hắn mới chẳng thể rời mắt khỏi Rachel, vừa nhìn ngắm, vừa mường tượng đến những chỗ mà lý trí của hắn không cho phép. Nếu hắn hôn cô lần nữa, liệu cô có nhiệt tình đáp lại hắn như hôm trước không nhỉ? Và sẽ mê người như thế nào, nếu như hắn cởi bỏ nút áo sơ mi bó sát kia, để được chiêm ngưỡng bầu ngực mềm mại, tròn đầy của cô?
Cuối cùng, Joseph đành phải với lấy quyển sách đang mở sẵn trên bàn để chuyển hướng suy nghĩ. “Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn à?”
Rachel đang lót vải thưa bọc pho mát vào một cái chao đặt cạnh bồn rửa, cô ngước lên hỏi hắn. “Anh đọc truyện đó chưa?”
Từ khi kết thúc đời học sinh cắp sách đến trường, Joseph chẳng mấy khi đọc sách hay thứ gì tương tự như thế, trừ một vài cuốn nói về ngựa, bò, hoặc cách trồng cây lương thực. “Chưa, tôi chưa đọc cuốn đó.”
“Thế còn cuốn Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer?” “Chưa.”
Cô đi đến chỗ một trong những giá sách treo trên tường nhà tắm và quay trở lại với cuốn tiểu thuyết có bìa bằng da. “Anh sẽ gặp Huckleberry lần đầu ở cuốn này.” Cô ngồi xuống đối diện với hắn, vặn to bấc đèn rồi bắt đầu lật mở cuốn tiểu thuyết với thái độ cẩn trọng, đầy nâng niu. Những ngón tay xinh xắn của cô vuốt ve từng trang sách, như thể đó là một người bạn lâu năm không gặp vậy. “Để tôi đọc cho anh nghe vài đoạn nhé.”
Joseph hoan nghênh bất cứ thứ gì có thể khiến hắn không để ý đến Rachel và những đường cong gợi cảm trên người cô. Ba mươi phút sau, hắn hoàn toàn bị cuốn vào câu chuyện, đầu óc hắn bay đến thị trấn nhỏ của St. Petersburg nằm dọc theo dòng sông Mississippi và cười thích thú với những mánh khóe của cậu bé Tom Sawyer, cùng với những lần cậu bị bà dì Polly phạt vì quá nghịch ngợm.
“Cái thằng ranh Sid đó nhiều chuyện thật”, hắn nhận xét.
Rachel mỉm cười và đẩy quyển sách về phía hắn. “Đến lúc phải làm ráo nước nồi sữa đông và bơ rồi. Sao anh không đọc to lên trong khi tôi làm việc nhỉ?”
Joseph cầm lấy cuốn sách và ngả người ra ghế, tìm đến đoạn cô vừa đọc. Chẳng mấy chốc, hắn lại như bị lạc vào câu chuyện một lần nữa. Hắn say sưa đọc, lờ mờ nhận thấy Rachel bận rộn đi tới đi lui trong nhà bếp và thỉnh thoảng đi đến ngồi cạnh bàn ăn.
Vì tội trốn học đi ra sông bơi, Tom bị bà dì Polly phạt phải tự mình sơn trắng lại toàn bộ hàng rào xung quanh nhà. Có điều Tom là một thằng bé lẻo mép, cuối cùng nó cũng lừa được mấy đứa bạn hàng xóm hoàn thành công việc thay cho mình.
Thời gian cứ thế nhanh chóng trôi qua, khi câu chuyện dần dần hé mở. Tom say mê một cô gái tên Becky Thatcher, con gái của vị thẩm phán và lần đầu nếm trải mùi vị thất tình. Thế rồi vào một buổi tối, cậu và Huck lẻn ra ngoài lúc nửa đêm để vào nghĩa địa, định sẽ làm một nghi lễ đặc biệt để trị mụn cóc. Hai đứa trẻ vẫn nghĩ trong nghĩa trang có đầy ma quỷ, nên vừa sợ hãi, vừa hồi hộp ngồi đợi để gặp một con ma.
Joseph đọc đến đó thì cười thầm và liếc nhìn Rachel. “Vậy là tôi không phải người duy nhất sợ ma rồi.”
Cô cũng toét miệng cười với hắn. “Đọc tiếp đi.”
Trong khoảnh khắc, Joseph nổi hết cả da gà. Hai thằng bé bị tiếng nói chuyện càng lúc càng gần dọa cho sợ mất vía, sau đó, chúng tình cờ chứng kiến cảnh một toán ba tên trộm vặt đào trộm một ngôi mộ. Rồi ba kẻ đó lại quay sang đánh nhau, cuối cùng Tom và Huck lại tận mắt chứng kiến một chuyện còn tệ hơn nhìn thấy ma gấp nhiều lần: một vụ giết người. Quá khiếp đảm, hai đứa bỏ chạy. Sau đó chúng thỏa thuận sẽ không nói cho bất kỳ ai, vì sợ tên giết người Joe Da đỏ biết được sẽ giết nốt cả hai đứa chúng.
“Hay thật đấy”, Joseph thú nhận sau khi ngừng đọc để nghỉ ngơi một chút. “Tôi không nghĩ mình sẽ bị nó thu hút đến vậy.”
Rachel vẫn bận rộn làm việc với kệ để đồ ngay cạnh bồn rửa, cô đang đổ sữa đông vào các tấm khuôn pho mát có lót vải thưa. “Đó là cuốn ưa thích của tôi đấy và cả cuốn Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn nữa, tôi nghĩ cuốn đó thậm chí còn hay hơn. Chúng đích thực là những kiệt tác của Twain.”
Joseph đọc tiếp. Một lúc sau, Rachel thay hắn kể chuyện, buổi sáng trôi qua nhanh đến nỗi loáng cái đã đến trưa lúc nào họ cũng không hay biết. Trong lúc giúp cô chuẩn bị bánh mì kẹp, Joseph vẫn còn kinh ngạc cảm thán về cuốn sách. “Tôi chưa quay lại miền Nam kể từ khi còn là một cậu bé loắt choắt đến khi trưởng thành, đọc truyện này lại khiến tôi có cảm giác như mình đang sống ở đó vậy.”
“Những lúc rảnh rỗi tôi rất thích đọc sách”, cô nói, hai má hơi hồng lên. “Chúng dường như mang cả thế giới rộng lớn ngoài kia vào trong gian bếp bé tí này của tôi, làm cho tôi cảm thấy được ánh mặt trời, cảm nhận từng làn gió lùa vào tóc, ngửi thấy hương hoa và nghe được cả tiếng chim hót nữa. Nếu không có sách bầu bạn, chắc tôi đã teo lại và có lẽ đã chết từ lâu rồi.”
Joseph mừng vì cô có những cuốn sách này làm bạn, nhưng chẳng hiểu sao hắn vẫn thấy buồn, khi biết thế giới của cô là do những câu từ, chữ viết tái tạo nên. Qua giọng nói của cô, hắn biết chắc cô khao khát được thấy lại ánh mặt trời ấm áp và rất rất nhiều niềm vui nữa mà có lẽ chỉ có thể tìm thấy ở ngoài kia, đằng sau những cánh cửa. Lúc này đây, hắn gần như có thể hy sinh tất cả để cô có thể trải nghiệm những thứ đó lần nữa. Nhưng buồn thay, hắn thực sự không biết phải làm thế nào.
Ace đến lúc hơn hai giờ chiều, sẵn sàng thay Joseph canh chừng ngôi nhà trong khi hắn đi vào thị trấn. Rachel ủ rũ, thất vọng khi nghe thấy giọng Ace ở bên kia cánh cửa, anh thông báo rằng lần này Caitlin không đi cùng.
“Sáng nay chúng tôi phải đi nhà thờ, mà chiều thì Caitlin cũng bận việc”, Ace giải thích. “Cô ấy nhờ tôi chuyển lời rằng lần sau sẽ cố gắng tới.”
Joseph lách người qua cánh cửa trên cổng tò vò. Sau khi Rachel đã gài cửa lại cẩn thận, hắn ra khỏi nhà bằng lối cửa sổ, rồi vòng qua phía sau để gặp anh trai. Hai con chó Buddy và Cleveland mừng rỡ sủa om sòm, chúng gặp nhau ở sân bên rồi quấn quýt trên mặt đất thành một mớ lông hỗn độn màu đỏ vàng và trắng. Chào hỏi xong, hai con vùng dậy đua nhau chạy, vừa chạy vừa cắn vào chân con kia cố gắng hạ gục nhau. Joseph nhìn bóng hai con vật phi qua hàng rào và mất hút vào trong bãi cỏ cao hơn phía xa xa. Hắn biết, chúng nó chơi chán sẽ quay trở về nên cũng chẳng thèm gọi lại.
“Chào”, Ace ngồi trên bậc thềm trước hiên gọi với hắn. “Hôm nay trời đẹp quá nhỉ.”
Joseph gật đầu tán thành. “Một buổi chiều đẹp trời. Vậy là mùa xuân sắp đến rồi đấy.” Hắn phóng mắt nhìn thảm cỏ trải dài hết tầm mắt, thầm ước Rachel cũng có thể ra ngoài để thưởng thức nắng chiều tuyệt đẹp lúc này. “Thật ấm áp dễ chịu. Em nghĩ đây là một tín hiệu đáng mừng.”
“Hôm nay là lễ Sabbath1, Caitlin không được làm việc nhà như mọi khi nên quyết định ra vườn xới đất để chuẩn bị trồng cây.”
1 Lễ Sabbath: có nghĩa là “ngày nghỉ ngơi”, hay còn gọi là Ngày Thánh, trong ngày này các tín đồ theo đạo không làm việc mà đi nhà thờ để cầu nguyện.
Joseph đã sống cùng một mái nhà với chị dâu đủ lâu để biết chị ấy không hề coi làm vườn là một công việc. Người phụ nữ này nâng niu cây như của quý. Năm nào cũng vậy, cứ vào ngày đầu tiên của tháng Hai, Caitlin lại rải đầy cửa sổ xung quanh nhà với đủ các loại cây, hoa trồng được trong vườn, để rồi sau đó lại nóng lòng thay hết một loạt bằng những chậu cây mới.
“Anh đã nói đi nói lại là bây giờ vẫn còn quá sớm để trồng cây, nhưng anh biết cô ấy sẽ làm cho bằng được. Rồi kiểu gì cũng có một trận sương giá làm chết hết mầm cây và anh sẽ lại phải mua sô-cô-la về dỗ dành bà chị em cho xem.”
Joseph không nhịn được cười. “Anh chiều chị ấy đến hư mất thôi. Chỉ để ý việc chị ấy sẽ buồn đến thế nào nếu chỗ cây đó bị chết hết vì sương giá, còn chẳng thèm quan tâm đến việc sẽ có bao nhiêu hạt giống bị lãng phí nữa.”
Ace chỉ nhún vai. “Anh chẳng tiếc tiền nếu có phải mua cho cô ấy cả một xe hạt giống. Bất kỳ điều gì khiến cô ấy vui, anh đều sẵn sàng làm.”
“Chị ấy đã hạnh phúc lắm rồi, Ace ạ. Khéo chị ấy còn nghĩ mặt trời mọc và lặn đều từ mông anh ấy chứ.”
Ace phá ra cười ha hả, kéo theo đó là một động tác hất mạnh đầu ra sau đến nỗi làm rơi cả mũ, mái tóc đen nhánh của anh được giải phóng, lấp lánh dưới ánh mặt trời. “Em biết cách dùng từ thật đấy, em trai.”
“Gần đây có nhiều người nói thế với em lắm rồi.” Joseph đi đến ngồi cùng Ace trên bậc thềm để hút một điếu thuốc, trước khi đóng xe ngựa và chất các thứ hàng hóa của Rachel lên xe. Lão Harrison Gilpatrick lúc nào cũng biết cách tận dụng buổi sáng Chủ nhật, sau khi mọi người đi nhà thờ về để mở cửa hàng và tạo điều kiện cho những cư dân thường chỉ vào thị trấn tuần một lần có dịp tậu về hàng tá đồ dùng thức ăn cần thiết. “Vết xước ở môi thằng bé thế nào rồi?”, hắn chuyển chủ đề sang hỏi Ace.
“Ổn cả.” Ánh mắt anh dịu dàng hơn hẳn. “Thằng bé chắc vẫn đang ở trong vườn, hớn hở nghịch đất với mẹ nó.”
Joseph có thể tưởng tượng rõ ràng cảnh tượng đó, hắn nhận xét, “Bé con hay thích nghịch đất thế mà”.
Một cơn gió bất ngờ thổi tới làm tung bay mái tóc vàng óng lòa xòa trước trán Joseph. Hắn nhìn xuyên qua vài lọn tóc, hướng về phía mấy tán cây sồi đang không ngừng đung đưa, trên cành cây đã nhú ra đầy chồi mới. Sớm thôi, cỏ cây sẽ thay lá khi xuân đến, bãi cỏ sẽ chuyển màu đậm hơn và khắp trang trại sẽ được phủ một màu xanh tươi mát với nhiều tông màu khác biệt. Nhưng Rachel sẽ chẳng bao giờ được nhìn thấy.
“Nhìn gì mà xa xăm vậy chú em?”, Ace bất thình lình hỏi hắn.
Joseph thở dài rồi lắc đầu. “Chỉ nghĩ, thế thôi. Buồn thật đấy, nhìn cô ấy cứ như thế mà sống.” Hắn ngoắc ngón tay cái ra hiệu về phía ngôi nhà. “Ngày này qua ngày khác, chẳng rời gian bếp bao giờ. Cô ấy thậm chí còn không thể nhìn qua cửa sổ để thấy ánh mặt trời hay ngắm một con chim nhảy nhót trên cành cây nữa. Đến em cũng phát điên khi mới chỉ ở trong đó có vài ngày. Em đã đọc một cuốn sách. Anh có tin được không?”
Ace lấy bao Crosscut của anh ra và châm một điếu. “Em thích cô ấy rồi, đúng không?”
“Khó mà ghét cô ấy được”, Joseph trả lời với giọng sắc bén. “Rachel là một cô gái tốt.”
Ace ngẫm nghĩ câu nói đó một lúc. “Không cần phải cáu lên thế đâu.”
“Em đâu có cáu. Anh đừng có suy diễn linh tinh. Phụ nữ khiến em thấy thích rất nhiều. Cái này chẳng nói lên gì cả.”
“Anh cũng có ý đó đâu.”
Joseph không bỏ qua cái nhếch mép của ông anh. “Gì chứ?”, hắn hỏi, tự dưng cảm thấy bực tức mà cũng chẳng hiểu tại sao.
Ace giơ hai tay lên đầu hàng. “Không có gì. Chỉ là thấy em nóng nảy hơn bình thường. Chẳng giống em tẹo nào.”
Joseph ném điếu thuốc trên tay và ấn chiếc mũ trên đầu xuống chặt hơn. “Em còn có nhiều việc cần thiết phải làm hơn là ngồi nghe anh nói vớ vẩn.”
Ace ngơ ngác nhìn hắn. “Khỉ thật, Joseph. Anh đã kịp nói gì đâu.”
“Chẳng cần nói cũng biết anh đang ám chỉ điều gì. Anh nghĩ em không biết trong đầu anh đang nghĩ gì chắc.”
Joseph giận dữ bước xuống thềm, dùng chân dẫm nát điếu thuốc, rồi ném cho ông anh một cái liếc bực bội. “Anh biết chắc chắn mình đang ám chỉ điều gì, đừng có bịp em.”
“Không, anh có biết gì đâu.”
Joseph chẳng thèm đôi co thêm với ông anh mà đi thẳng đến nhà kho. Hắn vẫn nghe thấy tiếng bước chân Ace theo sau mình. “Nhiệm vụ của anh là ở đó canh chừng ngôi nhà”, hắn quay lại, nói với giọng gắt gỏng.
“Anh ở đây quan sát ngôi nhà cũng có sao đâu.”
Joseph đi vào trong kho. Vài phút sau, hắn đi ra, dắt theo hai con ngựa, Ace muốn giúp đóng chúng vào xe chở hàng. Khi hai người một trước một sau đóng yên hai con ngựa, Ace lên tiếng hỏi, “Em yêu cô gái đó rồi hả, Joseph?”.
Câu hỏi khiến cơn giận của hắn bùng nổ. “Không, em không yêu cô ấy!”, Joseph nhận ra mình nói gần như hét vào mặt anh trai, hắn lại càng điên tiết. “Rồi nhé, cuối cùng anh cũng chịu thừa nhận!”. Từ sau mông con ngựa thiến, hắn chỉ một ngón tay vào khuôn mặt ngăm đen của Ace cảnh cáo. “Đừng bao giờ có cái ý nghĩ đó, anh nghe chưa? Anh mới là kẻ si tình trong gia đình này, không phải em. Em thích tìm vui ở bất cứ nơi nào em muốn rồi đi tiếp, trước giờ vẫn thế và sau này cũng sẽ không thay đổi.”
“Bình tĩnh nào, cậu bé, cũng phải có ngoại lệ chứ.” Joseph nghiến răng nuốt nước bọt và lại cắn vào lợi một lần nữa. “Không đời nào.” Hắn tung người ngồi lên xe ngựa, bắt lấy dây cương và đạp nhả phanh. “Em sẽ gặp anh khi nào quay trở lại. Hy vọng đến lúc đó anh sẽ có thể suy nghĩ tỉnh táo hơn một chút.”
Joseph đã đi được gần một dặm cách xa ngôi nhà, lúc này, hắn mới nhận ra mình quên không chất đồ lên xe. “Mẹ kiếp.” Hắn bực mình dừng hai con ngựa lại và xả cơn tức một lúc. Ngoại lệ sao? Ace luôn biết cách làm cho Joseph tức điên lên. Ờ, nên nhớ rằng người cười cuối cùng mới là người chiến thắng. Joseph Paxton, phải lòng một người phụ nữ ư? Ha. Không bao giờ.
Simone Gilpatrick là một phụ nữ đẫy đà, miệng lưỡi sắc sảo, với mái tóc đen và cặp mắt nâu lấp lánh. Tuy nhiên nhiều người ở đây không ưa bà, vì cái tính hách dịch và hay tọc mạch. Bà ta còn nổi tiếng vì rất hay đi buôn chuyện thị phi. Joseph hay mua sắm ở cửa hàng tạp hóa này vào ngày thường, khi chỉ có Gus, anh chàng làm thuê tóc đen lực lưỡng vẫn giúp Harrison trông nom quầy hàng, thế nên, hắn rất hiếm khi bắt gặp Simone, mà có gặp thì hắn cũng lờ bà ta đi, coi như không thấy.
“Chào buổi chiều, bà Gilpatrick”, hắn lên tiếng khi bước vào cửa hàng.
“Chiều sắp tàn đến nơi rồi còn gì”, bà Simone đáp lại hắn từ phía sau quầy. “May cho anh hôm nay là ngày Sabbath đấy, nếu không chúng tôi đã đóng cửa từ lâu rồi.”
Xỏ hai ngón tay cái vào hai bên thắt lưng, Joseph chậm rãi đi qua, đánh giá các giỏ, thùng đựng ngũ cốc và thực phẩm các loại bày la liệt trên mặt sàn gỗ, hắn vừa đi vừa kéo lê gót giày trên sàn nhà. “Theo tôi thấy thì mọi người vẫn còn chưa về hết, vậy nên, tôi đoán ông bà sẽ không đóng cửa cho đến khi số đồ này được bán sạch. Nếu không sẽ mất kha khá lợi nhuận đấy nhỉ.”
Bà ta khịt mũi và mím môi như thể vừa ngửi phải mùi gì khó chịu lắm. Joseph chỉ nhe răng cười. Ai cũng biết bà Simone là chúa tham lam. Nếu không có ông chồng tốt tính, lại công bằng Harrison Gilpatrick, thì có lẽ bà ta đã độn giá lên đến tận trời và vô tư nhét cả đống tiền vào két mà chẳng hề cắn rứt lương tâm đến một khắc.
Bà ta nhìn hắn dò hỏi, “Vậy tôi có thể giúp gì cho anh, anh Paxton? Nếu anh lại đến đây để nhét đầy lỗ tai ông Harrison mấy thứ về bò cái và sinh đẻ thì xin lỗi, ông ấy đang bận dọn dẹp ở phía sau rồi”.
Hôm nay, Simone mặc một cái váy bằng vải bóng màu tím nhạt, khiến bộ ngực bà vốn dĩ đã to giờ nhìn còn đồ sộ hơn gấp mấy lần so với bình thường. Joseph chẳng hiểu, thế quái nào ông Harrison lại cho phép vợ mình mặc những thứ quá phô trương như thế. Xong hắn lại tự hỏi mình, không dưng sao lại đi thắc mắc mấy thứ này. Harrison Gilpatrick là một người đàn ông trầm tĩnh, thân thiện, rất hiếm khi đi gây gổ với người khác và thường sẽ chỉ ngăn cản vợ khi ông thực sự thấy cần thiết mà thôi.
“Hôm nay tôi không đến đây thăm ông ấy”, Joseph đảm bảo với bà. “Tôi có vài thứ để chào hàng, một ít bơ, trứng gà và vài mẻ pho mát.”
Bà Simone gật đầu. “Tôi nghe nói anh đang ở cùng với cô Rachel ở trang trại nhà Hollister. Cả ngày lẫn đêm, theo như tôi hiểu.”
Joseph dùng ánh mắt sắc bén liếc bà. Nghe giọng bà ta có cái vẻ ẩn ý làm hắn không mấy dễ chịu.
“Chẳng có gì không đứng đắn xảy ra cả. Nếu người ta đang đồn đại như thế thì họ nhầm to rồi.”
Bà ta nhún vai. “Tôi chẳng thế kiểm soát những gì người ta nói được, anh Paxton ạ. Chuyện gì đang xảy ra ở trang trại nhà Hollister thì chỉ có anh mới rõ, còn chúng tôi chỉ biết đoán mò thế thôi.”
Nói rồi bà ta đi ra khỏi quầy bán hàng, tác phong có vẻ nhanh nhẹn và ra dáng thương nhân. Cái váy bóng bẩy từ đầu đến chân càng phóng đại vẻ ngoài tròn trĩnh thái quá của bà, đến nỗi, hắn còn tưởng mình nhìn thấy một cánh cửa nhà kho đang lạch bạch tiến về phía hắn. “Mấy thứ đồ anh muốn bán ở đâu?”
Joseph vẫn còn đang mắc kẹt với lời mọi người đang đồn đại về hắn và Rachel. “Từ từ đã.”
Bà Simone hống hách nhướng một bên lông mày màu đen lên. “Vâng, thưa anh Paxton?”
“Darby McClintoch, quản đốc của trang trại Hollister đã cố đi đến chỗ tôi khi vừa bị trúng một viên đạn vào sau lưng.”
“Chúng tôi đều nghe nói rồi. Giờ ông ấy thế nào?”
“Doc nghĩ ông ấy sẽ vượt qua được. Nhưng đó không phải điều tôi muốn nhấn mạnh.” Hắn đi theo bà chủ cửa hàng qua một mê cung toàn là giỏ và thùng đủ loại. “Darby tin rằng vụ tấn công có thể liên quan đến chuyện xảy ra với gia đình Hollister năm năm trước và ông ấy thực sự lo lắng về sự an toàn của cô Rachel. Đó là lý do tại sao tôi đang ở chỗ trang trại Hollister, để bảo vệ cô gái.”
“Tôi hiểu”, bà đáp, giọng hồ nghi.
“Cô Rachel sống trong một gian nhà bếp bốn phía đều bịt kín”, Joseph phản kháng. “Nhiều năm rồi cô ấy chưa mở cửa cho ai vào nhà. Làm sao người ta lại có thể nghĩ giữa chúng tôi đang có việc gì mờ ám được chứ?”
Bà Simone tiến về phía cửa ra vào, phần mông to như tấm ván của bà ta quẹt vào cả hai bên khung cửa. “Rachel Hollister là một tiểu thư trẻ tuổi chưa chồng, anh Paxton ạ và anh cũng là một chàng trai chưa vợ, người mà, thứ lỗi nếu tôi nói thế này nhé, người mà từ lâu đã có tiếng là một tay lăng nhăng.”
Một tay lăng nhăng? Mẹ kiếp, Joseph bắt đầu cảm thấy đau đầu thực sự rồi. Một kẻ lăng nhăng sẽ theo đuổi bất kỳ chiếc váy nào. Một kẻ lăng nhăng thì không hề biết đắn đo, do dự. Một kẻ lăng nhăng sẽ không ngần ngại lừa gạt cả những phụ nữ đứng đắn nhất. Mà hắn thì chẳng bao giờ dây dưa với phụ nữ trẻ tuổi đoan trang lần nào.
“Ý tôi không phải là tôi tin giữa hai người đang thực sự có chuyện gì đó không đứng đắn.” Bà ta nở một nụ cười ngọt đến mức có thể nhỏ ra nọc độc với hắn. “Tuy nhiên, anh cũng phải biết, bây giờ cả thị trấn người ta đang đồn ầm lên rồi.”
Và Joseph dám cá rằng, trong số đó, miệng lưỡi của bà ta là tích cực nhất.
“Dù anh có cắt bánh cẩn thận như thế nào đi chăng nữa, anh Paxton, thì người ta vẫn sẽ cố soi cho bằng được những mẩu vụn trong từng miếng bánh.”
Sức chịu đựng của Joseph đã lên đến cực điểm khi hắn bắt kịp bà ta ở chỗ cỗ xe ngựa. Con mụ già tự mãn chỉ thích bới móc chuyện người khác. Hắn tức điên khi nghĩ sẽ có người trong cái thị trấn bẩn thỉu bé tí tẹo này dám chỉ một ngón tay vào mặt Rachel Hollister và cười nhạo cô. Đó là một trong những người con gái tốt nhất và đúng mực nhất hắn từng gặp trong đời.
“Vậy thì có lẽ một số người đã quên mất lời răn thứ tám rồi nhỉ”, hắn nhắc lại cho bà ta. “Bịa chuyện bôi nhọ hàng xóm của mình cũng là một tội lỗi.”
Bà Simone chỉ khinh khỉnh nhướng lông mày nhìn hắn. “Rốt cuộc anh có muốn bán mấy thứ đồ này hay không nào?”
Joseph đã bị Ace chọc cho tức điên lên thì chớ, bây giờ hắn chỉ muốn giết người. Nhưng hắn không thể cứ thế mà bóp nghẹt con mụ già phiền phức này, vậy nên hắn quyết định sẽ dùng một chiêu khác. Hắn sẽ trả đũa bằng cách mặc cả giá với bà ta.
“Bốn cent một tá trứng thôi à? Chỗ này là trứng gà nuôi bằng ngũ cốc, mà tôi biết tỏng mỗi một tá trứng như này có giá đến tận sáu cent. Tôi vừa mới nhìn giá rồi, bà bán chúng với giá chín cent cơ đấy. Vậy là mỗi một tá bà lãi đến ba mươi ba phần trăm, như thế là hời quá rồi ấy.” “Cút đi.”
Joseph gật đầu. “Có lẽ cứ làm thế đi vậy. Tôi sẽ cứ đứng ở đây và bán phá giá mấy thứ này xuống khoảng vài cent gì đó, như thế không những có thể thu lại lợi nhuận cho cô Rachel như bình thường một cách nhanh chóng, mà còn lấy lại hết phần trăm của bà nữa. Bà có muốn đánh cuộc không?”
Cuối cùng, Joseph bán được sáu cent một tá trứng, tám cent mỗi pound1 pho mát, là giá tốt nhất từ trước đến giờ cho Rachel và sáu cent cho mỗi pound bơ. Hắn đánh xe ngựa lên phố Main Street, vừa đi vừa cười như một thằng điên. Ai nói trả thù là không ngọt ngào nào?
1 Pound: (viết tắt: lb, lb , lbm, ℔) là một đơn vị đo khối lượng truyền thống của Anh, 1 pound tương đương với 0,45359237 kg.
Chặng dừng tiếp theo của hắn là chỗ người thợ cưa. Ronald Christian là một người đàn ông có vóc dáng trung bình, với mái tóc đen láy và đôi mắt xanh dương thân thiện. Ngày thường, người ta luôn bắt gặp ông mặc một bộ quần yếm jean vá chỗ nọ chỗ kia nhưng sạch sẽ, mùa đông cũng như mùa hè, chỉ trừ những lúc đi cầu nguyện, ông ta sẽ thay một bộ đồ chỉnh tề khác.
Joseph vừa từ trên xe ngựa nhảy xuống, mấy cậu nhóc nhà Christian đã nhanh nhảu chạy ra đón hắn. Richie, đứa nhóc sáu tuổi ôm cứng lấy một chân hắn, cậu em Donnie nhỏ hơn một tuổi bắt lấy chân còn lại. Joseph đưa tay vỗ nhẹ lên mái đầu tóc mun của hai đứa trẻ và nhìn vào những cặp mắt màu xanh dương to tròn của chúng mà mỉm cười.
“Xin chào, các cậu bé. Ngày hôm nay thế nào hả?” Ronald từ trong xưởng bước ra, gọi là xưởng nhưng thực chất nó giống một cái lán hở bốn bên, đơn giản, chỉ gồm mái chống đỡ bằng vài cây cột. “Nào, Richie, Donnie”, ông nạt. “Buông tha cái chân của anh Paxton đi chứ. Anh ta đi làm sao được nếu mấy đứa cứ đeo lủng lẳng trên người như thế hả.”
Joseph làm rối bù mái đầu hai đứa nhóc rồi mới chuyển sự chú ý sang ông bố. “Chào, Ron. Tôi cần vài mảnh ván.”
“Loại nào?”
“Loại nào cũng không quan trọng lắm. Tôi chỉ cần chúng dầy hơn một chút thôi.” Hắn giơ hai tay lên để minh họa. “Cô Rachel Hollister cần một cánh cửa mới.”
Ronald gật đầu. “Tôi nghe nói giờ anh đang ở chỗ đó.” Joseph tự hỏi lão còn nghe được những gì nữa.
“Tôi rất tiếc về chuyện xảy ra với Darby. Lão giờ thế nào rồi?”
“Doc vẫn thường xuyên tới kiểm tra tình hình của ông ấy. Cho đến giờ thì vẫn ổn. Tối qua ông ấy có hơi sốt một chút làm chúng tôi hơi lo. Nhưng Doc nói đó là phản ứng tự nhiên, hoàn toàn nằm trong dự liệu.”
“Vết thương do đạn găm vào phiền phức lắm”, Ronald tán thành. “Tôi vẫn luôn quý lão Darby này. Hy vọng ông ta sẽ qua khỏi”. Rồi ông ra hiệu cho Joseph đi theo mình vào trong xưởng, nơi ông cất trữ đồ. “Vậy là anh đang cần loại gỗ nào nhỉ?”
“Tôi chẳng quan tâm là loại nào. Chỉ cần các tấm ván thật dày để làm một cánh cửa chặn, thứ gì đó đủ chắc chắn có thể lấp kín cánh cổng tò vò.”
Ronald dẫn Joseph đi đến cuối cùng của xưởng. Hai cậu con trai lão trèo lên những đống gỗ như hai con kiến nhỏ li ti, chúng thi nhau la hét, khúc khích cười và dường như có thể chạy đến bất cứ chỗ nào chỉ trong tích tắc.
Chỗ gỗ đã bào nhẵn của nhà Christian không cái nào dày quá được hai inch, mà Joseph lại đang cần loại chắc chắn hơn thế nhiều. Hắn đi đến chỗ một đống gỗ thông thô vẫn chưa được cưa nhỏ theo chiều dọc.
“Mấy cái này được đấy”, Joseph nói. “Ông có thể bào nhẵn hơn một chút và vẫn để nguyên độ dày như thế này không?”
Ronald tươi cười. “Thế thì anh có muốn tìm ván gỗ đâu, anh bạn. Anh muốn cả một phần tư cây gỗ ấy chứ.”
Joseph nhẹ nhàng gật đầu. “Làm cho tôi bốn thanh như thế này nhé?”
Diana, vợ của Ronald xuất hiện ngay sau đó. Bà là một phụ nữ nhỏ nhắn với mái tóc nâu, đôi mắt xanh lá cây dịu dàng và dáng người mảnh khảnh. Chiếc váy màu xám bà đang mặc thuộc loại quần áo rẻ tiền may sẵn ở Montgomery Ward, nhưng dù thế, nhìn bà vẫn rất tuyệt trong một ngày Chủ nhật như thế này. Bà giơ một bàn tay nhỏ nhắn ra chào hắn.
“Anh Paxton, thật vui vì thấy anh đến đây. Chúng tôi không hay có khách mua hàng vào ngày Chủ nhật.”
“Tôi đã hy vọng là ông Ron sẽ vẫn làm việc ở đây nên ghé qua.”
Bà mỉm cười. “Bình thường ông ấy mà làm việc vào Chủ nhật thì tôi sẽ càu nhàu đấy, nhưng Garrett Buckmaster đang xây nhà kho mới nên Ron phải hoàn thành cho kịp đơn hàng vào đúng thứ Ba tuần sau”. Vẻ mặt bà bỗng trở nên nghiêm nghị. “Tôi rất tiếc về chuyện Darby, anh Paxton ạ. Cô Rachel hẳn phải khó khăn lắm. Darby là người gần gũi nhất với cô ấy còn sống trên đời.”
Ronald liếc nhìn qua bà Diana đến chỗ mấy cậu con trai đang nghịch ngợm rồi quát, “Richie, xuống ngay không lại ngã gãy cổ bây giờ!”.
Bà Diana vội vã chạy đến tóm lấy đứa con, để Joseph và Ronald ở lại thương lượng giá cả.
Trên đường ra khỏi thị trấn, Joseph nghe thấy tiếng lão Bubba đập đe vọng lại. Có vẻ như tất cả các cửa hàng, xưởng, tiệm ở No Name đều vẫn hoạt động vào Chủ nhật. Sau khi chuyển hướng xe ngựa đi vào sân trước của xưởng rèn, Joseph thắng phanh, nhảy xuống xe, rồi thong thả đi vào ngôi nhà.
“Bubba?”
Gã thợ rèn lực lưỡng từ một góc đi ra, phần tóc đỏ lốm đốm bạc phía trước trán của gã ướt nhẹp, đôi vai trần cơ bắp bóng loáng mồ hôi. Sức nóng từ bên trong xộc ra ngoài suýt chút nữa làm Joseph nghẹt thở.
“Joseph, chào.”
“Những kẻ xấu xa sẽ không bao giờ biết nghỉ ngơi là gì, đúng không nào.”
Bubba cười xòa. “Dù sao thì cũng chẳng có ngày nghỉ Chủ nhật cho một gã thợ rèn như tôi. Ai cũng tiện thể ghé qua đây đặt hàng trước khi vào nhà thờ, vậy nên giờ tôi có cả một núi việc ấy, mà tất cả đều phải hoàn thành trước khi khách quay lại vào cuối buổi chiều.”
Joseph gật đầu. “Vậy thì tôi sẽ không lãng phí thì giờ của ông nữa, chỉ là thắc mắc liệu ông đã bắt tay vào làm cánh cửa nào chưa và cũng muốn biết ông nghĩ ý tưởng đó khả thi hay không ấy mà.”
“Cũng không mất công là mấy”, lão nói, ra hiệu cho Joseph nhìn về phía sau vai mình. “Tôi chỉ việc duỗi thẳng các thanh sắt ra và hàn chúng lại với nhau thôi. Nhưng nhìn không được đẹp lắm. Tôi nghĩ nên sơn chúng lại một lượt sẽ tốt hơn.”
“Ý ông là ông làm xong hết rồi hả?”, Joseph đi theo lão thợ rèn vào trong. Mấy cánh cửa bằng song sắt được đặt trên sàn nhà gần lò rèn. Bubba nói đúng, chúng cần phải được sơn lại thật. Những chỗ sắt đã hoen rỉ nhìn thật mất thẩm mĩ.
“Thế này là tốt lắm rồi, Bubba ạ. Chắc ông phải thức đến tận nửa đêm mới làm xong ấy nhỉ.”
“Tối qua, sau bữa tối, tôi có tranh thủ làm thêm một lúc.” Lão toét miệng cười rồi nháy mắt với hắn. “Bà xã Sue Ellen biết tôi làm xong cứ quấn tôi suốt. Anh biết rồi đấy, bà ấy vui thì tôi cũng vui, đơn giản thế thôi.”
Joseph cười khùng khục. “Ừ, giúp tôi chuyển lời đến bà White, rằng chúng tôi rất biết ơn lòng tốt của bà ấy. Rachel chắc chắn sẽ cảm thấy an toàn hơn khi có mấy tấm song sắt này bên ngoài.”
“Vợ chồng tôi chỉ mong cô ấy có thể được đón chút ánh nắng mặt trời.” Nói rồi Bubba cúi xuống, nắm lấy song sắt trên một cánh cửa bằng bàn tay to khỏe của mình. “Để tôi giúp anh chất chúng lên xe.”
Trên đường ra nơi Joseph đỗ xe ngựa, Bubba ngoái lại thao thao với hắn, “Bà vợ Ellen của tôi biết cô Rachel nhớ ánh nắng mặt trời nên cứ ấp ủ ý tưởng thiết kế cho cô gái nhỏ một khoảng sân trong”.
“Một cái gì cơ?”
“Một khoảng sân trong”, Bubba lặp lại. “Khoảng sân có tường bao quanh với một cánh cổng chặn và trần nhà ấy. Anh nghĩ cô Rachel sẽ thích nó chứ?”
Đây quả thực là một ý tưởng tuyệt vời, Joseph nghĩ. Một cái sân trong. Cả người hắn rạo rực vì phấn khích. “Tôi không thể nói trước liệu cô ấy có thích nó hay không, ông Bubba. Cứ nhìn thấy lỗ hổng nào trong nhà là cô ấy lại sợ đến mức không thể kiểm soát nổi ấy.”
“Không nhất thiết phải mở ra mà. Bà Sue Ellen nói chúng ta có thể xây dựng những bức tường thật cao bằng đá, còn trần nhà bằng song sắt sẽ được cố định bằng hồ xây và được đè chặt dưới lớp đá phía trên cùng của mỗi bức tường. Với một cánh cửa sắt vững chãi, khóa chặt từ bên trong, nó sẽ giống như một pháo đài ngoài trời, bao quanh bởi bốn bức tường đá ở bốn phía.”
“Tôi không chắc”, Joseph dè dặt đáp. “Phải xem cô ấy phản ứng thế nào với phần song sắt phía sau mỗi cánh cửa trước đã. Sẽ là vô ích nếu chúng ta cứ cố xây dựng một thứ gì đó, dù biết chắc cô ấy sẽ chẳng bao giờ dùng đến.”
Bubba có vẻ thất vọng.
“Dù sao thì ý tưởng cũng rất tuyệt”, Joseph vội vã thêm vào. “Kể từ khi chứng kiến cô ấy sống khép kín như vậy, tôi cũng đã nghĩ nát óc, cố tìm ra cách nào đó giúp cô ấy có thể tận hưởng một chút cuộc sống bên ngoài. Nhưng tôi chẳng bao giờ nghĩ đến việc làm một cái sân ở ngay trong nhà. Nếu Rachel cảm thấy an toàn với cánh cửa sắt và có thể mở cửa đón không khí trong lành như bình thường, tôi nghĩ rất có khả năng cô ấy cũng sẽ cảm thấy an toàn trong một khoảng sân như vậy.”
Bubba lau mồ hôi trên trán, trả lời, “Tôi nghĩ nó sẽ rộng khoảng mười lăm feet, dài tầm hai mươi feet”. Rồi lão vung một cánh tay lực lưỡng về phía đống sắt hoen rỉ ngoài sân.
“Chúa mới biết nhà tôi chứa nhiều sắt phế liệu đến mức nào.
Chỉ cần xây một chỗ nho nhỏ, để thỉnh thoảng, cô Rachel có thể ra ngồi sưởi nắng, hoặc thậm chí là trồng cả một vườn hoa để thu hút đàn bướm và chim chóc đến nữa ấy chứ.”
Joseph cũng đã hình dung được trong đầu. Một khu vườn xinh xắn, với băng ghế dài và hoa trải đầy xung quanh, có lẽ cả một cái cây nhỏ nữa. Hắn chỉ muốn ôm hôn bà Sue Ellen một cái vì đã nghĩ ra ý tưởng tuyệt vời này. Nếu Rachel đủ dũng cảm, cô sẽ có thể ra ngoài hít thở chút không khí trong lành. Mặt trời sẽ rọi ánh nắng xuống qua các chấn song và cô cũng sẽ cảm nhận được những cơn gió mùa hè dịu dàng thổi bay mái tóc. Còn cả tiếng chim hót nữa chứ, nếu có thể, cô sẽ lại được nghe âm thanh đó hằng ngày. Joseph biết chắc Rachel sẽ thích chúng.
“Bubba, vợ ông thật đúng là thiên tài.”
Bubba ngượng ngùng, mặt lão đỏ ửng lên khiến những nốt tàng nhang dường như cũng lu mờ đi. “Ừm, nhưng đừng nói với bà ấy nhé. Bình thường bà ấy cũng đã lắm chuyện lắm rồi.” Lão chùi một bàn tay vào chiếc tạp dề da đen như bồ hóng. “Mà quả thực tôi cũng bị thuyết phục vì ý tưởng của bà ấy. Sáng nay, khi đi nhà thờ, Sue Ellen đã đem ý tưởng này ra bàn với mọi người và có kha khá trong số đó tỏ ý muốn đóng góp đá tảng để xây tường cho cô Rachel. Hình như nhà ai cũng có cả đống đá dồn lại sau khi dọn đất làm nhà ấy. Chúng ta chỉ còn thiếu vữa nữa thôi, nhưng anh chàng ở mỏ đá Jake Lenkins đã hứa sẽ đóng góp nguyên liệu để trộn vữa.”
Cổ họng Joseph nghẹn cứng lại. Hắn không thốt được nổi lời nào.
“Tôi hy vọng anh không nghĩ mấy chuyện này là thừa thãi”, Bubba nói. “Tôi đã nói Sue Ellen đừng bàn ra bàn vào nữa, nhưng bà ấy là thế đấy, đã muốn làm gì thì chẳng ai có thể ngăn cản được.”
Joseph nhấc chiếc mũ cao bồi xuống, đập đập vào chân, rồi lại đội nó lên trên đầu. Hắn không rõ Rachel có đủ can đảm để bước ra khỏi gian bếp và ra ngoài sân không. Nhưng thế thì có quan trọng gì nhỉ? Điều đáng nói ở đây là Joseph biết, Bubba và vợ lão Sue Ellen vẫn luôn quan tâm đến Rachel, nên họ mới mất công nghĩ ra đủ các ý tưởng như vậy. Có thể một số người luôn thích bới móc chuyện của người khác, nhưng hắn dám chắc một điều rằng, quanh đây vẫn còn có những người hàng xóm tuyệt vời, họ chẳng bao giờ quan tâm đến lời đồn đại mà chỉ muốn mang đến những điều tốt đẹp cho người khác.
Rachel Hollister đã bị cô lập trong ngục tối suốt năm năm liền và hiện tại hắn biết, người dân ở No Name đang tìm cách giải phóng cho cô khỏi cái ngục tù đó.