• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Gió mùa hè
  3. Trang 16

Chương Mười Một

Khi Joseph rời tiệm rèn lên đường quay trở lại trang trại, tâm trạng của hắn đã khá hơn hẳn. Một khoảng sân, ở ngay trong nhà cho Rachel. Hắn khó có thể tin được là bà Sue Ellen White còn tìm được người tình nguyện đóng góp đá tảng cho cô. Một khi đá được vận chuyển đến, Joseph chỉ việc bắt tay vào xây các bức tường. Hắn tin chắc đến lúc đó, các anh em trai của mình sẽ tới giúp. Gió mùa hè cho Rachel, một mong ước gần như bất khả thi, giờ đây, sẽ có thể trở thành hiện thực.

Trong đầu Joseph đang vẽ ra vô vàn ý tưởng, hắn sẽ thiết kế vườn hoa cho cô như thế nào, trồng những loại cây gì, rồi họ sẽ dùng loại ghế dài như thế nào, vân vân và vân vân. Rồi cả chuồng chim nữa, có thể lắm chứ. Chúng sẽ được treo lơ lửng trên các song sắt, nhìn chắc sẽ thú vị lắm, thậm chí chim chóc cũng có thể sẽ làm tổ trong đó, rồi đẻ trứng. Không phải Rachel sẽ rất vui mừng, khi nhìn thấy những quả trứng nở ra và những chú chim non lớn lên từng ngày hay sao?

Khi về đến nhà, hắn ngạc nhiên khi thấy một cỗ xe độc mã dừng ngay trước cổng trang trại nhà mình.

Không phải Doc, hắn xác nhận. Cỗ xe này nhìn mới hơn và chủ nhân của nó có vẻ là một người phụ nữ. Joseph thắng xe ngựa ngay bên ngoài nhà kho, vì lúc nữa hắn phải mang thêm một số dụng cụ theo trước khi rời Bar H. Hắn đi vòng quanh nhà kho một lượt để kiểm tra hai người làm của mình và bắt gặp Johnny đang ung dung đánh một giấc dưới bóng cây râm mát, vành mũ cao bồi kéo xuống che kín hai mắt. Joseph ho một tiếng đánh thức anh ta khỏi giấc ngủ ngày.

“Anh Paxton!”, anh chàng làm thuê vừa lắp bắp nói vừa vội vã đứng lên.

“Tôi trả lương hậu hĩnh cho anh chỉ để anh lăn ra ngủ, trong khi ngày còn chưa tàn đấy hả, Johnny?”

“Không, thưa ông chủ.” Johnny chụp lại chiếc mũ lên đầu. “Tôi chỉ định nghỉ giải lao một lát thôi, thật đấy, nhưng chẳng hiểu sao lại ngủ quên mất. Chắc có lẽ tại tôi làm việc siêng năng quá.”

Joseph nghi ngờ. “Đừng để chuyện như thế này xảy ra lần nữa, nếu không tôi sẽ trừ tiền lương của anh đấy”, hắn nói dứt khoát. Rồi hắn chỉ tay về phía con bò cái đang thơ thẩn trên bãi cỏ. “Anh phải thường xuyên đi kiểm tra khắp trang trại này, xem có con bò nào sắp đẻ không. Bart đâu rồi?”

“Hình như đang đi làm việc anh vừa nói rồi.”

“Rồi, vậy thì ra đó mà giúp anh ta một tay đi chứ”, Joseph thúc giục. “Tôi hy vọng anh sẽ hoàn thành tốt lượng công việc xứng đáng với đồng lương hậu hĩnh tôi trả cho anh.”

Gã trai trẻ tuổi phủi bụi bám trên quần, rồi đi dắt con ngựa của hắn ra. Joseph nhìn theo cậu ta, mừng thầm vì hắn đã về đúng lúc để bắt quả tang anh chàng này đang làm biếng. Một lần khiển trách cũng đủ để cậu ta nghiêm túc làm việc trong vài ngày, trước khi lại bắt đầu ngủ quên trong khi làm việc một lần nữa…

Joseph vẫn nhìn theo cho đến khi gã làm thuê cưỡi ngựa ra khỏi sân nhà kho. Hắn quyết định la cà xung quanh, để xem ai vừa ghé thăm nhà mình.

Khi bước qua cửa trước vào trong nhà, hắn nghe tiếng nói chuyện từ đâu đó ở phía sau, vọng lại qua dãy hành lang. Nhà hắn có ba phòng ngủ, sở dĩ hắn thiết kế như thế vì nghĩ sau này, hai cậu em nhỏ hơn của hắn có thể sẽ muốn rời nhà Ace đến đây ở. Joseph thực sự yêu quý David và Esa, nên sẽ không phiền nếu hai đứa dọn qua ở cùng hắn. Mặc dù hắn cũng phải thừa nhận rằng, từ bé mấy anh em gần như đã chán ngấy việc phải ngủ chung phòng với nhau rồi.

Hắn sải bước qua phòng khách thiết kế thông với nhà bếp và đi theo hướng phát ra âm thanh đến phòng bệnh của Darby, chính là căn phòng đầu tiên phía bên tay phải. Đi đến cửa, hắn ngạc nhiên khi thấy Amanda Hollister đang ngồi trên một chiếc ghế tựa thẳng lưng đặt cạnh giường, hai bàn tay run rẩy của bà nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt đỏ bừng vì sốt của Darby. Ở phía bên kia giường bệnh, Esa đang chăm chú nhìn hai người, vẻ mặt bối rối.

“Ông ấy thế nào rồi?”, Joseph khẽ hỏi.

Amanda ngước lên nhìn. Một lần nữa, Joseph cứng người vì bà và Rachel giống nhau như tạc. “Joseph”, bà cất tiếng chào hắn và nở một nụ cười. “Thật vui lại được gặp anh.”

Sau cuộc chia tay không mấy thiện chí ngày hôm qua, Joseph bất ngờ vì bà vẫn chào hỏi hắn nồng nhiệt như vậy. “Rất vui được gặp lại bà”, hắn chân thành đáp lại. Ở người phụ nữ này có gì đó khiến hắn rất có cảm tình. “Có chuyện gì khiến bà phải đến tận đây vậy?”

Hai má Amanda Hollister hơi hồng lên khi bà giải thích, “Vốn dĩ tôi định nói mình đến đây chỉ để xem Darby thế nào, nhưng kỳ thực thì, tôi cũng muốn đến xin lỗi anh vì chuyện hôm qua. Lúc đó tôi thực thô lỗ quá, đáng nhẽ tôi không nên phản ứng gay gắt như vậy”.

Joseph nhìn vào đôi mắt xanh sáng trong như mặt hồ của Amada, thật khó để tin là bà đã từng ấy tuổi. “David và tôi cũng hiểu được mà”, hắn liếc nhìn Darby lần nữa. Lão quản đốc hình như vẫn đang ngủ say. “Ông ấy vẫn còn sốt hả?”

“Vẫn còn, tôi e là thế”, Amanda nhúng miếng bọt biển vào một bát nước đặt ở đầu giường. “Sốt cao là đằng khác.”

“Doc vừa mới rời đi”, Esa lên tiếng. “Ông ấy đã cho Darby uống một ít thuốc an thần để giúp lão dễ ngủ hơn. Vết thương đã viêm tấy lên và hành hạ lão quản đốc dữ lắm.”

“Tôi ghét phải nghe điều này”, Joseph dựa tay vào phần khung chân kim loại đã qua chế tác của chiếc giường. “Doc nói thế nào?”

“Cũng tương tự như mấy lần trước, rằng tình trạng viêm tấy và sốt cao thế này là bình thường.”

Joseph gật đầu. “Ông ấy cho rằng tình hình Darby vẫn khả quan chứ?”

Esa chỉ nhún vai. “Ông ấy chẳng nói gì. Em đoán thế có nghĩa là ông ấy cũng đang lo. Darby cũng không còn trai tráng nữa và cơn sốt lại đang làm tình trạng của lão xấu đi”.

Amanda dừng động tác lau mồ hôi trên mặt Darby nói, “Không còn trai tráng là sao hả? Darby McClintoch còn mạnh mẽ hơn sáu gã trai trẻ gộp lại ấy chứ”. Rồi bà quay sang nhìn Esa với ánh mắt sắc sảo. “Cậu nghe đây, ông ấy sẽ vượt qua được và sẽ tiếp tục làm việc như các cậu, ít nhất cũng phải được hai mươi năm nữa.”

Joseph hy vọng bà ấy nói đúng. Hắn không rõ Rachel sẽ xoay xở thế nào nếu Darby ra đi và hắn chắc chắn cũng không muốn mình sẽ phải là người mang tin tức đó đến cho cô nếu có chuyện không hay xảy ra.

Amanda quăng miếng bọt biển vào bát nước rồi đứng dậy một cách khó nhọc. Bà mặc một chiếc áo khoác màu nâu được cắt may vừa người và một chiếc váy cưỡi ngựa dài đến mắt cá chân. Bà đưa một cánh tay run rẩy về phía Joseph. “Đỡ tôi một tay nào, chàng trai. Tôi muốn anh ra ngoài kia đi dạo với tôi một lúc”.

Joseph nhanh chóng đứng dậy từ phía cuối giường.

Nhưng thay vì giơ cánh tay ra, hắn vòng hẳn một tay qua lưng bà, giúp bà đứng cho vững. Hắn biết bà sẽ không thể tự mình đi lại được.

Hai người ra khỏi nhà, bà đi chậm lại và dừng trước cỗ xe độc mã. “Tối qua, tôi gần như không ngủ được, trong đầu cứ nghĩ mãi về cuộc viếng thăm của các anh.”

“Bà không phải bận tâm vì chuyện đó. Chẳng phải lần đầu tiên David bị mời ra khỏi nhà một người, cả tôi cũng vậy. Cái huy hiệu cảnh sát có tác dụng mang đến những cuộc viếng thăm chóng vánh như thế đấy.”

Amanda gật đầu. “Thật không phải khi buộc các anh ra khỏi nhà, nhưng thực ra, đó cũng chưa hẳn là lý do khiến tôi phải trằn trọc cả đêm. Em trai anh đến với mục đích nhờ tôi giúp đỡ, mà tôi lại gắt gỏng và gần như đã đuổi cậu ta ra khỏi nhà như vậy.” Nói rồi bà nhìn chằm chằm về phía ngôi nhà một lúc lâu. “Anh biết không, tôi yêu ông ấy. Ý tôi là Darby ấy.”

“Cũng như cháu gái bà yêu quý Darby. Ông ấy thực sự là một người đàn ông tốt.”

“Ý tôi không phải như vậy”, Amanda sửa lại. “Tôi nói là tôi yêu ông ấy. Yêu từ nhiều năm nay rồi.”

“Ồ.”

Bà run run nở một nụ cười. “Tôi biết anh đang thắc mắc điều gì. Rằng chúng tôi gặp nhau lúc nào, bằng cách nào và nếu như tôi yêu Darby, thì tại sao đến tận bảy mươi tuổi rồi vẫn không đến với ông ấy?” Bà xoay xở, cố gắng tiến đến cạnh cỗ xe ngựa để dựa người vào đó. Joseph có thể nhìn thấy nỗi đau đè nén trong đôi mắt bà. “Darby từng làm việc cho bố tôi ở Kentucky, khi tôi còn là một cô bé. Sau đó, khi ông quyết định di dời trang trại sang miền tây, Darby mới về sống với cả gia đình.”

“Vậy là bà đã quen biết ông ấy gần như cả đời mình?” “À, phải. Khi cha tôi mất, Darby vẫn ở lại làm việc cho em trai tôi. Trong suốt những năm đó, ông ấy giống như một thành viên trong gia đình, chứ không đơn thuần chỉ là người làm thuê.”

Joseph gật đầu, thể hiện rằng hắn đã hiểu.

Bà nhún vai. “Khi còn ở Kentucky, nói thế nào nhỉ, anh có thể nói tôi là một đứa con gái khá bướng bỉnh, ngoan cố.”

Joseph hoàn toàn có thể hình dung được. Không phải người phụ nữ nào ở tuổi này đều như bà, dọa quất roi vào mông người làm vì hắn ngược đãi một con ngựa. “Tôi cũng chưa gặp người nào lớn lên ở Kentucky mà lại không cứng đầu một chút, với lại tôi nghĩ, khi còn trẻ ai cũng từng nổi loạn như vậy mà.”

“Tôi còn cứng đầu hơn bất kỳ người nào ấy và khi lên mười sáu tuổi, tôi đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng.” Bà run run hít vào một hơi. “Một anh chàng cao bồi trẻ tuổi, đẹp trai, lại dẻo miệng đã đến làm thuê tại trang trại của gia đình, mà tôi lúc đó lại lầm tưởng mình đã yêu anh ta say đắm.

Cho đến khi tôi có thai, anh ta mới bộc lộ bản chất thật sự, rồi biến mất không một dấu vết. Cha tôi là một người nghiêm khắc và cũng rất kiêu ngạo. Ông thà gửi tôi đến một nơi bí mật để sinh con, chứ không muốn phải chịu đựng nỗi nhục nhã kia. Rồi đứa bé bị đem đi cho người khác nhận nuôi, mà cả gia đình chẳng một ai hay biết, ngay cả Darby cũng không biết.”

“Khi tôi trở về nhà, dường như Darby biết, tôi cần ai đó để tâm sự. Quãng thời gian đó quả thực rất khó khăn. Cha không bao giờ tha thứ cho tôi, chỉ có Darby lúc nào cũng đứng về phía tôi. Mặc dù ông ấy rất ít nói”, bà vừa nói vừa nở một nụ cười, “nhưng như thế mới là Darby. Thời gian và lần nhẹ dạ cả tin đó cũng làm cho cô gái ngày nào trưởng thành hơn một chút và tôi bắt đầu có ấn tượng tốt với con người tốt bụng đằng sau tính cách trầm tĩnh của Darby. Ông ấy không biết ăn nói sao cho cuốn hút, nhưng là một người đàn ông chín chắn, kiên định, lại rất chân thành. Và cũng chính vì thế, dần dần tôi đã yêu ông ấy”.

“Vậy lúc đó cha bà phản ứng thế nào?”, Joseph hỏi. “Ông không bao giờ biết. Mà tôi chắc ông cũng sẽ phản đối. Darby chẳng có gì, ngoài một con ngựa và bộ yên, mà cha tôi thì luôn muốn gả con gái mình cho một tay chủ đất nào đó. Dù sao cũng chẳng quan trọng, ngay từ đầu, tôi đã xác định mối quan hệ này sẽ không thành. Thậm chí, đã có lần Darby muốn tôi gả cho ông ấy, nhưng tôi buộc phải từ chối.”

Joseph nhíu mày. “Nhưng tại sao chứ? Nếu bà yêu ông ấy, thì tại sao lại không đồng ý lấy ông ấy?”

“Tôi từ chối bởi vì tôi yêu ông ấy”, bà khẽ nói, rồi phẩy tay. “Khi ấy điều đó quan trọng với tôi, Joseph ạ. Cuộc đời tôi đã bị hủy hoại, nhơ nhuốc thì đúng hơn. Một người như Darby xứng đáng có được điều tuyệt vời hơn thế, một cô gái thuần khiết và trong trắng.”

“Ý nghĩ điên rồ.”

Bà phá lên cười và lau hai bên má bằng đôi bàn tay run rẩy. “Ừ, đúng, bây giờ nghĩ lại, tôi cũng thấy mình dại dột, vì người phụ nữ thực tế có thể mang lại nhiều thứ quan trọng hơn trong một cuộc hôn nhân, không phải chỉ có trinh tiết là đủ. Tôi đã là một kẻ ngốc với suy nghĩ lầm lạc như thế đấy. Tôi đã làm những gì bản thân mình cho là đúng vào thời điểm đó, một sự hy sinh vĩ đại vì tình yêu. Khi đó tôi mới bao nhiêu? Mười tám tuổi? Phải biết là đàn bà con gái ở tuổi đó rất dễ kích động, mà tôi thì chẳng có mẹ để chỉ bảo cho mình biết phải làm gì. Có lẽ nếu còn có mẹ, thì chắc chắn ngay từ đầu tôi đã không rơi vào hoàn cảnh bi đát như vậy. Nhưng thực tế là không, cha thì ghét bỏ tôi vì đã đem lại nhục nhã, bôi nhọ danh dự cả gia đình và làm nhơ bẩn cái tên cao quý của ông.”

“Ông ấy cũng quá nhẫn tâm rồi.”

“Ông ấy đúng là một người cha nghiêm khắc. Từ khi mẹ qua đời, ông ấy gần như suy sụp và thay đổi hẳn. Khi tôi quay trở về nhà, sau khoảng thời gian mang bầu rồi sinh đẻ, ông gọi tôi vào nhà kho, sau đó truyền đạt một tối hậu thư. Ông nói dứt khoát rằng, nếu muốn ở lại trang trại, tôi phải thề sẽ không bao giờ tiết lộ sự nhục nhã của mình cho bất cứ ai.

Vì thế, nên khi được Darby hỏi cưới, tôi đã từ chối mà không đưa ra được lý do thực sự. Tôi chỉ nói mình không thể và để ông ấy tự đoán câu trả lời.” Mắt bà lại đong đầy nước. “Đến cuối cùng, ông ấy lại hiểu nhầm tôi, nghĩ là tôi không có tình cảm với ông ấy. Đó cũng là khi mối quan hệ của chúng tôi đổ vỡ, chôn vùi tất cả những điều tốt đẹp đã có giữa hai người. Ông ấy vẫn làm việc cho cha tôi, sau đó chuyển đến vùng đất Colorado này cùng cả gia đình, nhưng ông ấy luôn luôn lảng tránh tôi. Có lẽ, càng ở gần tôi càng khiến ông ấy đau khổ.”

“Tại sao bà lại kể với tôi tất cả những chuyện này?”, Joseph khó hiểu.

Bà nhìn thẳng vào mắt hắn. “Để anh biết rằng, tôi không bắn Darby McClintoch. Và em trai anh, David, nên tập trung vào điều tra kẻ giết người thực sự, chứ đừng mất thời gian đoán già đoán non về tôi làm gì.”

Lý do này nghe có vẻ thỏa đáng với Joseph. “Vậy theo bà thì ai có thể làm ra chuyện này?”

Amanda thở dài. “Tôi chẳng nghĩ ra ai cả. Darby vẫn luôn tận tụy và trung thực như lần đầu chúng tôi gặp nhau, vào bốn mươi hai năm về trước. Thực sự, tôi không tin người như ông ấy lại có kẻ thù.”

“Thế còn Henry thì sao, cha của Rachel ấy? Có kẻ nào ghen ghét, thù hằn gì ông ấy không?”

“Theo tôi biết thì có hai người, đó là tôi và Jeb Pritchard.”

Joseph phải nể phục tính cách thẳn thắng của Amanda Hollister. Dù hiểu rõ bản thân mình đang là kẻ tình nghi trong vụ Darby bị bắn, nhưng bà không hề biện hộ hay phủ nhận điều này. “Tôi biết tại sao Jeb căm ghét Henry, nhưng không thực sự hiểu, tại sao bà cũng chẳng ưa ông ấy?”

Amanda mỉm cười. “Tôi không ghét Henry, Joseph. Tôi chỉ tức giận cháu trai mình thôi. Hai điều này khác hẳn nhau.”

“Được rồi, vậy thì tại sao bà lại phải tức giận ông ấy?” Bà nhắm mắt lại một lúc, rồi mới trả lời hắn. “Thực ra, tôi rời trang trại của gia đình không phải vì tức giận Henry, mà chủ yếu là do tức giận cha và em trai mình. Suốt nửa đời người, tôi đã phải làm việc vất vả ngang với một người đàn ông, đầu tiên là ở Kentucky và sau đó là ở đây, tôi chẳng bao giờ mong sẽ nhận được sự đề cao hay công nhận từ phía cha mình. Nhưng cho đến ngày ông mất, trong đầu ông vẫn chỉ nghĩ tôi là một đứa con gái hư hỏng, đáng xấu hổ, là thứ mầm mống bị ông căm ghét, vứt bỏ. Anh không tưởng tượng được ngày nào cũng phải sống trong cảnh đó thì sẽ thế nào đâu. Ngày nào cũng làm việc từ sáng sớm đến tối muộn, trở về cũng chỉ nhận được sự im lặng, dửng dưng của cha và em trai trong suốt buổi tối. Không bao giờ được góp ý hoặc cân nhắc điều gì, chẳng phải bởi vì ý tưởng không hay, mà chỉ đơn giản, vì đó là ý tưởng do một đứa con gái như tôi nghĩ ra chứ không phải ai khác. Henry cũng được dạy cách coi thường tôi như thế, rằng tôi là một bà bác ương ngạnh, không đủ chín chắn, không biết chừng mực và là người đã đem đến nhục nhã cho cả gia đình nó.”

“Vậy có nghĩa là Henry cũng biết chuyện đứa bé?”

“Tôi không rõ. Nó chưa từng nói chuyện đó với tôi. Chỉ là thái độ của nó làm tôi đau lòng. Tôi coi vợ nó như con gái và yêu quý những đứa nhỏ của chúng như thể đó là con mình. Có điều, nó chẳng bao giờ có ý định muốn làm hòa với tôi, cứ như sự ghét bỏ và coi thường đã ăn vào máu nó rồi ấy. Tôi đã bị ruồng bỏ. Cha tôi mất, chẳng để lại cho tôi thứ gì. Sau đó em trai cũng mất và tôi vẫn chẳng có gì. Bản thân thì ngày càng suy yếu, vì đã làm việc vất vả trong nhiều năm liền.” Bà cúi xuống nhìn hai bàn tay mình. “Từ dạo đó, tôi bắt đầu mắc chứng tê liệt. Tôi đã hỏi Henry về một khoản chu cấp hằng tháng trích từ phần tài sản thừa kế của nó. Không phải đất đai hay nhà cửa gì, mà chỉ là một khoản tiền nho nhỏ, đủ để tôi có thể lo cho bản thân khi không còn sức để làm việc. Tôi không đòi hỏi nhiều để bản thân đỡ phải áy náy khi phải sống như một kẻ ăn bám cháu trai.”

“Và ông ấy từ chối.”

Bà gật đầu. “Từ chối một cách thẳng thừng. Không phải vì chuyện tiền bạc, vì tôi biết Henry là một đứa hào phóng. Thằng bé cảm thấy nó có nghĩa vụ phải làm theo ý nguyện của ông nội và cha mình, tôi đã bị gia đình ruồng bỏ mà không nhận được một xu vậy nên nó cũng chẳng có quyền thay đổi điều đó.”

Đến giờ, Joseph chẳng thể đổ lỗi cho bà Amanda vì đã bỏ đi và tự gây dựng một trang trại nhỏ của riêng mình. Nếu là hắn, chắc hắn cũng sẽ làm như vậy.

“Henry không phải đứa tồi”, bà tiếp tục nói. “Nó chỉ quá bảo thủ với những ý nghĩ đã bị tiêm nhiễm vào đầu từ khi mới lọt lòng, còn bình thường, nó vẫn rất công bằng với những người khác. Như Jeb Pritchard chẳng hạn. Henry đã nhún nhịn cái gã đểu cáng đó. Chỉ tiếc, nó đã không thể công bằng như vậy khi đối xử với bác ruột của mình.”

“Tôi rất tiếc”, Joseph nói. Hắn vẫn nghĩ, ai cũng có lúc mắc phải sai lầm. Amanda cũng vậy và bà đã phải trả giá cho nó gần như suốt cả cuộc đời. “Thật không công bằng khi cha bà vẫn luôn trách cứ bà về chuyện đó lâu đến vậy.”

Amanda chỉ nhún vai và mỉm cười. “Đời có lúc nào công bằng đâu chứ? Cũng may là mọi chuyện cuối cùng cũng đến hồi kết sau khi Peter mất. Tôi cũng cần phải rời trang trại của gia đình và gác lại chuyện cũ sau lưng. Mà đáng nhẽ tôi nên quyết định đi sớm hơn mới phải. Bà nội để lại cho tôi một phần tài sản nho nhỏ, tôi dùng nó để mua một mảnh đất. Trang trại hiện tại không phải lớn, nhưng cũng mang lại một khoản thu nhập vừa đủ để tôi có thể duy trì cho đến cuối đời, quan trọng hơn, nó là tài sản thuộc quyền sở hữu của riêng tôi. Bây giờ, tôi chẳng cần phải cúi đầu trước bất kỳ người nào nữa.”

Joseph không nghĩ người như bà lại có thể cúi đầu trước bất cứ ai, tuy nhiên hắn thấy tốt hơn hết là nên im lặng, không nói cho bà ý nghĩ đó. “Vậy, theo bà thì Jeb Pritchard là kẻ đứng sau vụ tấn công nhằm vào cháu trai bà và gia đình ông ấy?”

“Tôi không có chứng cứ, nhưng đúng, tôi tin đó hẳn phải là Jeb.”

Joseph lấy hộp Crosscuts trong túi ra. Khi hắn tự rút cho mình một điếu, bà Amanda đưa tay về phía hắn, phàn nàn. “Đừng ích kỷ thế chứ. Tôi cũng muốn một điếu.”

Joseph chưa gặp phụ nữ biết hút thuốc lá bao giờ.

“Mắt anh sắp lồi cả ra ngoài rồi kia kìa. Bình thường, nếu một người đàn ông hỏi xin anh một điếu thuốc, anh cũng cứ đờ ra mà nhìn người ta như thế hả?”

Joseph mời bà một điếu Crosscut. Sau khi đã mồi lửa và thở ra một hơi bà nói, “Gần như cả đời tôi đều làm việc cùng với đàn ông, cùng họ đổ mồ hôi, rồi bị thương, cùng nhau chửi thề. Thế nên, tôi đoán mình hoàn toàn có quyền yêu cầu một điếu thuốc nếu muốn”.

Phải, bà có quyền lắm chứ. Joseph cười cười. “Bà nói đúng. Là tôi sơ ý. Chỉ là, tôi không quen thấy phụ nữ hút thuốc.”

“Tôi không chỉ là một người phụ nữ, Joseph Paxton”, bà vặn lại. “Mà còn là một quý bà chính thống luôn ấy, anh liệu mà nhớ kỹ điều đó.”

“Tôi sẽ không quên”, Joseph đảm bảo với bà. Mà hắn nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ quên được. Amanda Hollister đích thực là một viên ngọc quý hiếm. “Còn một điều nữa tôi muốn hỏi bà. Có vẻ hơi ngoài lề một chút, nhưng vấn đề này luôn khiến tôi thắc mắc.”

“Việc gì?”

“Tại sao bà không bao giờ đến thăm cháu gái mình? Bà là người thân cuối cùng còn sống sót của cô ấy cơ mà.”

Ánh mắt bà lại toát lên vẻ đau đớn. “Tôi có đến, ngay khi nó tỉnh lại sau cơn hôn mê, lúc ấy nó còn ở chỗ của Doc. Tôi yêu thương con bé như con đẻ thì dĩ nhiên phải đi thăm nó rồi.”

“Chuyện gì đã xảy ra?”, hắn hỏi.

Amanda run run rít một hơi thuốc lá. “Nó vừa nhìn thấy tôi là bắt đầu la hét ầm ĩ.”

Khi Joseph về đến trang trại Hollister, câu đầu tiên Rachel hỏi sau khi nhìn thấy hắn là: “Darby thế nào rồi?”.

Vẻ lo lắng hiện lên trong đôi mắt xanh dương của cô khiến hắn không dám nói thật. “Ông ấy đang làm rất tốt. Dĩ nhiên là vẫn còn yếu lắm nhưng tình hình đang ngày một khả quan hơn. Darby là một ông bạn già rất kiên cường.”

Rachel cười rạng rỡ, đôi vai cô thả lỏng vì nhẹ nhõm. “Ơn trời, vậy thì tốt quá. Anh có gửi lời hỏi thăm của tôi đến ông ấy không?”

“Có. Sẽ không còn lâu đâu, đến lúc đó cô tự đi mà hỏi thăm khi ông ấy quay trở về.”

Theo quan điểm của Joseph, kể cả Rachel có biết rõ về tình hình của Darby thì cũng chẳng làm gì cho ông ấy được, vậy nên, cũng chẳng ích lợi gì khi để cô phải lo lắng cho ông.

Hơn nữa tình hình của lão nhìn chung vẫn tốt, ngộ nhỡ lão có đột nhiên suy yếu đến mức gần kề cái chết, đến lúc đó, Joseph sẽ nói thật với cô. Tuy nhiên, đó mới chỉ là nếu, còn bây giờ chưa phải lúc.

Cô rất vui mừng khi biết Joseph đã kiếm được thêm hai cent nữa cho mỗi tá trứng, ba cent mỗi pound pho mát cô tự tay làm và thêm một xu cho mỗi pound bơ.

“Trời đất, anh làm cách nào vậy? Bà chủ cửa hàng ở đó tính toán đến từng xu ấy.”

Joseph cao hứng đến mức gần như cảm thấy mình cao hơn tận vài inch, kể từ khi bước vào trong nhà. “Tôi dọa sẽ bày hàng ra bán ở ngay lối đi dẫn vào cửa hàng của bà ta, sau đó bán phá giá tất cả. Bà già đó biết chắc tôi sẽ hút hết khách hàng, đồng nghĩa với việc bà ta sẽ không kiếm lời được, nên cuối cùng cũng phải nhượng bộ.”

“Ồ, vậy thì”, Rachel chun mũi, rồi cúi xuống nhìn đống tiền xu trên tay một lần nữa. “Lạy Chúa, nhiều thế này ư! Tôi thậm chí có thể nghĩ đến việc đi mua sắm một chuyến ấy chứ.”

“Mua sắm ấy hả?”, Joseph ngồi xuống cạnh bàn ăn, một tay hắn giơ ra gãi gãi đầu Buddy. “Vậy là cô đang tính mua gì à?”

Joseph nghĩ cô hẳn sẽ phải liệt kê ra vài món đồ nữ tính một chút trong danh sách. Bình thường, chị Caitlin vẫn dành cả tiếng đồng hồ chỉ để nghiên cứu catalog của cửa hàng Montgomery Ward, rồi lại mơ ước có được cái này, than vãn vì muốn có cái kia. Sau đó đều là Ace đứng đằng sau nghe thấy và đi đặt hàng tất cả những thứ vớ vẩn linh tinh đó cho chị.

Thế nhưng, Rachel lại làm hắn ngạc nhiên khi hỏi: “Bột mì ở chỗ bà Simone giá bao nhiêu nhỉ? Anh có để ý không?”.

“Hai cent rưỡi một pound.”

“Thật đúng là ăn cướp giữa ban ngày mà!”, Rachel trợn tròn mắt. “Bà già đó đang nghĩ cái gì vậy? Thị trấn này có phải là chỗ mà ngay cả nhu yếu phẩm cũng hái ra tiền được đâu. Vậy đào khô thì thế nào?”

Joseph vắt óc nhớ lại. “Mười hai cent mỗi pound, tôi nghĩ thế.”

“Những mười hai cent?” Cô ngồi xuống cạnh chiếc bàn với tệp giấy và một cây bút chì. “Vậy thì thôi, tôi sẽ chẳng mua nổi mấy thứ xa xỉ đó. Muối thì bao nhiêu?”

“Tuần trước tôi có mua một ít, giá lúc đó là ba cent mỗi pound.”

“Anh không đùa tôi đấy chứ? Hai vợ chồng Gilpatricks làm cái quái gì với đống tiền đó được nhỉ?”

“Ờ thì, tôi cũng chẳng rõ, nhưng hôm nay Simone mặc một cái váy dài màu tím nhạt, bóng bẩy từ đầu tới chân, nhìn bà ta cứ như cánh buồm no gió ấy.”

Rachel bật ra một tràng cười không được nữ tính cho lắm, rồi vội nhét một đầu ngón tay vào mũi mình. “Xin lỗi.” Cô lại phá ra cười. “Anh nói gì cơ? Cánh buồm no gió? Ôi, trời đất.”

Hắn tiếp tục tả. “Thử nghĩ đến chi phí mua từng ấy vải mà xem. Chắc phải mất hơn một mẫu vải mới phủ kín bộ mông to bằng tấm ván của bà ta ấy chứ. Bà ta lách qua cánh cửa cũng còn khó khăn nữa là. Ban đầu, tôi còn tưởng bà ta sẽ bị kẹt lại cơ, vậy nên tôi đã nghĩ, mình sẽ kiếm một ít mỡ để làm chất bôi trơn rồi đá bà ta ra ngoài.”

Cô lại cười khùng khục. “Đủ rồi.” Thế rồi cả người cô đổ xuống ghế, cô đánh rơi chiếc bút chì và tiếp tục cười cho đến khi chảy nước mắt.

“Bà ta vẫn giữ cái kiểu hếch mũi lên khi nói chuyện với người khác chứ?”

Joseph gật đầu. “Và loe lỗ mũi ra. Bà ta còn hay bĩu môi nữa.” Rachel phá ra cười một lần nữa, bàn tay cô ấn chặt vào phần eo bụng mảnh dẻ và bắt đầu lăn lộn trên ghế. Chính vào lúc đó, Joseph biết rõ hơn ai hết, rằng cả đời hắn chưa từng được chiêm ngưỡng người phụ nữ nào đẹp hơn cô.

Thế nhưng chính phát hiện này lại khiến hắn lo lắng gần chết.

Hắn nhớ mẹ hắn đã từng nói rằng, điều tốt đẹp nhất thường xảy đến vào lúc con người ta ít ngờ tới nhất. Được rồi, cứ cho là thế đi. Nhưng nếu lúc đó anh ta chưa sẵn sàng thì sao? Hắn thích Rachel và cũng không thể chối cãi được là hắn không cách nào rời mắt khỏi cô ấy. Có điều, hắn cũng không chắc loại cảm xúc lâu dài và bền vững đối với một người liệu có thể đến một cách chóng vánh như thế này không.

“Gì thế?”, cô vừa hỏi hắn, vừa đưa tay lau vệt nước mắt, hậu quả của trận cười lúc nãy. “Sao tự dưng thấy anh nghiêm túc vậy?”

Nghĩ ngợi một chút, rồi hắn nhanh chóng trả lời cô, “Tôi chỉ đang nghĩ, có nhiều lúc cuộc sống trở nên thật điên rồ”. Cái này thì đúng. “Cô thì cứ chắt chiu từng đồng một để đổ vào ví tiền nhà Gilpatrick và bà Simone lại được dịp lãng phí chúng vào những bộ váy khiến bà ta trông càng đồ sộ như cánh cửa nhà kho. Như thế thật chẳng công bằng.”

“Đáng nhẽ tôi không nên cười”, cô nói trong khi vẫn cố giữ biểu cảm khuôn mặt ở mức bình thường. “Ngày nào đó, tôi sẽ trở nên già nua và béo phì, nhìn tôi chắc cũng sẽ giống một cánh buồm no gió nếu khoác trên người bộ váy bóng bẩy nào đó. Nhất là một bộ váy màu hoa oải hương.”

“Màu hoa oải hương. Không phải đó là màu tím nhạt à?”, Joseph chẳng hình dung được sẽ có ngày Rachel trở nên phì nhiêu, nhưng nếu như thế, hắn tin chắc, trông cô vẫn cứ là một phụ nữ cực kỳ ổn. “Phụ nữ các cô luôn có những cách gọi mỹ miều cho mọi thứ. Cứ gọi là màu tím nhạt thì có chết ai đâu?”

“Tím là một màu khá đậm. Màu hoa oải hương thì dịu hơn nhiều.”

Còn theo hắn, màu tím chỉ có thể là màu tím.

Cô bắt đầu liệt kê một danh sách đồ cần mua. “Mấy thứ này không cần phải gấp gáp đâu, được chứ? Để lần tới anh vào thị trấn mua cũng được, chỉ là vài nguyên liệu trong nhà sắp hết.” Cô ngước lên nhìn hắn. “Sau đó, tôi sẽ ghi một hối phiếu, đủ để chi trả cho những thứ cần mua. Anh có thể mang số tiền thu được ngày hôm nay gửi vào tài khoản ngân hàng của tôi không?”

“Không vấn đề gì.”

Cô viết xong danh sách và đẩy nó về phía Joseph, cùng với số tiền hắn đã giúp cô kiếm được ngày hôm nay. “Mấy thứ đồ thiết yếu này sẽ đủ cho tôi duy trì trong một thời gian.”

Hắn nhìn qua một lượt những thứ cô đã liệt kê trong tờ giấy. Nét chữ của cô mềm mại và duyên dáng, cũng đẹp như chủ nhân của nó vậy, khả năng chính tả thì hoàn hảo, không chê vào đâu được. Mắt hắn bất ngờ dừng lại ở một dòng, “bột bán’”.

“Cái gì đây?”, hắn hỏi cô. “Cô không viết chữ cái H.”

Mặt cô bỗng chốc tái nhợt, rồi cô đột ngột đứng bật dậy khỏi bàn ăn. “Tôi phải điền hối phiếu luôn, nếu không sẽ quên mất.”

Cô quay trở lại bàn, mở ra một cuốn sổ đỏ lớn và bắt đầu cắm cúi viết. Lúc sau, khi đưa cho hắn tấm hối phiếu, cô nói, “Tôi nghĩ chỗ này sẽ đủ để chi trả những thứ đã liệt kê trong danh sách kia. Tuần tới, anh có thể gửi tiền thừa vào tài khoản bất cứ lúc nào”.

Cô viết một hối phiếu hai đô la, đủ để chi trả cho những thứ cô cần và một vài thứ nho nhỏ nữa. Điều làm hắn khó hiểu là chữ ký của cô, Rac’el ’Ollister. Cô không viết bất kỳ chữ cái H nào. Hắn liếc nhìn cô dò xét.

“Tên cô đánh vần như thế nào nhỉ, Rachel?”

Cô đứng dậy khỏi ghế và vẫn quay lưng lại khi nói với hắn. “Trời ạ, tôi quên mất không để ý thời gian. Đến lúc phải chuẩn bị bữa tối rồi.”

Joseph nhìn theo cô với ánh mắt hoang mang. Nhìn dáng vẻ của cô, hắn biết, cô đang buồn bã chuyện gì đó, nhưng hắn chẳng thể đoán ra được. Hắn đành quay lại, tiếp tục nghiên cứu danh sách cô đưa cho hắn và đó, ở ngay dòng đầu tiên, cô viết và gạch chân cụm từ “N’ững t’ứ cần mua trong t’ị trấn”. Lại một dòng nữa không có H.

Tại sao cô lại phải tránh không viết chữ cái đó? Hắn không tin cô lại viết sai cả tên mình, chứ đừng nói đến những chữ khác. Theo hắn thấy, khả năng viết chính tả của cô gần như hoàn hảo. Hơn nữa, cô luôn luôn thay thế vị trí có chữ cái H bằng một dấu nháy đơn, điều này cho thấy, cô hoàn toàn ý thức được mình đã viết thiếu cái gì.

Hắn tin chắc là phải có một lý do nào đó mới khiến cô lựa chọn không viết chữ cái H.

Sau khi kết thúc bữa tối được một lúc, Joseph nghe giọng của David khẽ vọng vào từ phía trước nhà. Rachel lại nhảy dựng lên như con thỏ con bị ai đó túm được.

“Anh có nghe thấy gì không?”

“Có.” Joseph đứng dậy. “Đó là em trai tôi, David. Nhưng nó ở chỗ quái quỷ nào thế nhỉ?” Hắn tiến đến gần cánh cổng vòm hơn. “À, tôi cá là nó đang ở đâu đó phía hông nhà, cạnh ô cửa sổ bị vỡ.” Hắn thở dài, tiếc nuối đoạn truyện đang đọc dở. Tom Sawyer, Joe Harper và Huck bắt đầu chán ghét cái xã hội “tầm thường” mình đang sống nên đã chạy đến đảo Jackson, một dải đất nhỏ giữa dòng Mississippi để tìm nguồn vui mới. “Tốt hơn hết tôi nên ra ngoài xem cậu chàng muốn gì.”

Joseph đi vào, nhặt lấy cái áo khoác của hắn đang vứt trên tấm nệm trong nhà tắm. Khi quay lại nhà bếp, hắn nhìn Rachel dò hỏi. “Cô có phiền không nếu tôi bảo em trai vào trong nhà?”

Rachel giật mình, liếc nhìn cánh cửa. “Ý anh là vào trong này ấy hả?”

Joseph chẳng hiểu hắn đang nghĩ gì nữa. Dĩ nhiên, cô sẽ không hoan nghênh một vị khách nam giới nào nữa rồi. Chỉ là… ừm, ở trong này cô hoàn toàn bình thường, làm hắn quên béng mất rằng những thứ ở ngoài bốn bức tường kia sẽ có thể khiến cô kinh hoảng.

“Thôi quên đi.” Hắn mặc áo khoác vào. “Tôi nói chuyện vài phút rồi sẽ quay lại.”

Cô siết chặt hai tay quanh hông. “Anh có thể mời cậu ấy vào. Dù sao thì đó cũng là em trai anh, hơn nữa còn là cảnh sát trưởng. Tôi không sao đâu. Cậu ấy không đe dọa gì đến tôi cả.”

Không đe dọa gì cả. Joseph dừng lại và quay lưng về phía cánh cổng vòm. Hắn không muốn ép cô phải làm quen với mọi việc quá nhanh. “Không sao. Tôi cũng muốn ra ngoài hút một điếu thuốc nữa.”

“Không, cứ làm thế đi, tôi không ngại nếu cậu ta vào đây một lát. Phiền anh dẫn cậu ấy đi qua lối cửa sổ ấy. Tôi sẽ thấy khá hơn khi nhấc thanh chặn ở cánh cổng vòm, vì nó dẫn đến phần còn lại của ngôi nhà.”

Vì ở phía đó có tường. Thế đấy, chỉ cần nghĩ đến việc mở một cánh cửa dẫn ra bên ngoài thôi đã đủ làm cô phát hoảng, vậy mà hắn còn đang mơ mộng sẽ thiết kế cho cô một khoảng sân trong nhà nữa cơ đấy. “Thực ra thì, David muốn trao đổi một số thứ liên quan đến công việc của cảnh sát trưởng, tôi chỉ sợ cô sẽ thấy nhàm chán thôi.”

“Không sao, thật đấy, Joseph. Tôi muốn anh dẫn cậu ấy vào đây giúp tôi. Làm ơn đi mà.”

Joseph biết rõ cô đang sợ đến mức tim muốn vọt ra ngoài. Tuy nhiên, đây có lẽ là điều sớm muộn gì cô cũng phải làm.

“Cô chắc chứ?”

Cô gật đầu. “Chắc. Mời cậu ấy vào đây. Tôi sẽ đi lấy thêm cà phê.”

Joseph cầm chiếc đèn bàn lên và lách người qua cánh cửa ra ngoài phòng ăn. Hắn nghe thấy tiếng thanh chặn cửa sập xuống ngay sau lưng mình, chỉ riêng chi tiết nhỏ này thôi đã đủ chứng minh cho hắn thấy nỗi sợ hãi đã ăn sâu thành bệnh trong đầu cô. Cô biết hắn sẽ quay trở lại ngay lập tức, nhưng vẫn phải chặn kín cánh cổng kia dù chỉ trong chốc lát khi hắn không có ở bên cạnh.

Joseph đi qua khúc quanh bên hông nhà và thấy con ngựa của David đã được buộc vào một cái cọc ở trước hiên, còn cậu em trai thì đang ung dung hút thuốc.

“Chào”, David lên tiếng.

Joseph nheo mắt nhìn cậu em qua màn đêm dày đặc. “Có việc gì mà em đến muộn thế này?”

“Đã đến lúc phải ghé thăm nghi phạm của chúng ta một lần nữa. Em chỉ đang thắc mắc không biết anh có muốn đi cùng nữa không thôi. Ngày mai em định sẽ gõ cửa tất cả các trang trại quanh đây để hỏi mấy người chủ và những người làm thuê ở đó xem họ có biết gì không, dĩ nhiên bao gồm cả chỗ của Pritchard và Amanda Hollister. Ace nói, anh ấy cũng từng dính chặt mông vào hiên nhà người ta một lần rồi nên cũng không ngại đến đây thay anh canh gác thêm lần nữa.”

Joseph cười khùng khục. “Nếu anh ấy không phiền thì anh đoán mình có thể ra ngoài một chuyến. Thực ra, một mình em dạo một vòng quanh các trang trại ở đây cũng chẳng vấn đề gì, nhưng anh nghĩ, tốt nhất em không nên đến chỗ bố con nhà Pritchard mà không có ai đi cùng.” Rồi hắn thuật lại cuộc nói chuyện gần đây với bà Amanda Hollister cho David nghe. “Bà ấy nghĩ Jeb đã giết Henry cùng các thành viên khác trong gia đình Hollister và cũng nghĩ chính lão ta là kẻ đã bắn Darby.”

“Anh nghĩ bà ta đang nói thật hả?”, David hỏi vặn lại.

Người Joseph run lên bên trong chiếc áo khoác không cài khuy của hắn. “Bà ấy yêu Darby McClintoch, anh cá với em đấy, nếu không anh thề sẽ thủ dâm một mình. Với lại anh cũng nghĩ bà ấy nói thật về vụ xích mích với Henry nữa.”

David ngẫm nghĩ điều hắn nói một lúc. “Ừm, vậy thì em cho rằng cần phải theo dõi Jeb. Nếu đúng là lão ta bắn Darby, chẳng sớm thì muộn lão cũng sẽ nhằm vào cô Hollister. Cũng may là anh đang ở đây với cô ấy.”

“Thực ra anh nghĩ trông chừng lão ta sẽ tốt hơn là cứ lang thang ngoài này đấy. Em ăn gì chưa?”

“Vẫn chưa. Tối Chủ nhật em phải trực muộn, chờ cho đến khi mọi người rời thị trấn hết. Chị Caitlin thường phần một ít thức ăn cho em.”

Joseph vỗ vai cậu em. “Bọn anh thì vừa ăn xong. Tối nay Rachel đãi anh vài miếng thịt lợn muối dày, luộc lên rồi tẩm bột rán vừa tới. Còn có khoai tây nghiền, ngô đóng hộp tự làm và bánh táo để tráng miệng, thêm ít cà phê nữa.”

“Anh đang trêu tức em đấy hả?” Joseph toét miệng cười. “Anh cũng có sung sướng gì đâu.” “Thế nên em vẫn thấy ái ngại cho anh khi phải ở cùng một người điên cả ngày như vậy. Cô ta mà nấu ăn chắc anh cũng chẳng dám phàn nàn ấy.”

Thực tế, Joseph gần như đã quên mất mình phải phàn nàn cô ở bất cứ điểm gì. “Vào trong đi. Vẫn bằng cách cũ, chui qua cửa sổ như lũ trộm.”

Khi đã vào trong phòng ngủ của Henry và Marie Hollister, David dường như muốn đổi ý. Joseph nâng ngọn đèn lên để chiếu sáng lối đi dọc hành lang, David cảm thán, “Nơi này thật đáng sợ. Cứ như thể người chết chỉ mới rời khỏi và sẽ quay trở về nhà bất cứ lúc nào ấy”.

“Anh hiểu cảm giác của em. Thời gian gần như đã đông cứng lại ở hầu hết mọi ngóc ngách trong ngôi nhà này. Nhưng gian bếp đằng sau lại cực kỳ bình thường, rồi em sẽ thấy.”

“Anh chắc cái người đó sẽ muốn em vào trong không?”

Cái người đó? Joseph hình dung khuôn mặt ngọt ngào của Rachel trong đầu, hắn cá cậu em mình sẽ có một sự bất ngờ lớn. Hắn dẫn đường khi hai người đi dọc hành lang. “Cô ấy đã không mở lời mời em vào trong, nếu như bản thân cô ấy không muốn.”

Rachel gần như bị dọa cho dựng đứng cả lên khi Joseph gõ lên cánh cửa trên cổng tò vò. Buddy thoăn thoắt chạy tới và sủa lên một tiếng vui mừng. Chắc là Joseph rồi, cô xác nhận. Nhưng kể cả khi con chó đã nhận ra chủ của nó đang đứng ở bên kia cánh cửa, cô vẫn không tài nào thuyết phục bản thân tin tưởng vào điều đó.

“Joseph, là anh đấy hả?”

“Phải, tình yêu à, là tôi đây. Còn ai vào đây được chứ?”

Rachel đã bắt đầu nhấc thanh chặn cửa lên, rồi như bị đóng băng tại chỗ. Em trai Joseph đi cùng anh ấy, một người hoàn toàn xa lạ. Vài phút trước, cô đã dũng cảm hơn rất nhiều khi quả quyết muốn mời cậu ta vào. Nhưng là vì lúc đó Joseph vẫn còn ở trong phòng với cô. Cô nhận ra mọi thứ dường như trở nên dễ dàng hơn đối với mình mỗi khi có Joseph bên cạnh.

Cô nghe thấy một giọng nói không quen thuộc vang lên đằng sau cánh cửa, “Anh chắc chắn cô ấy sẽ ổn chứ?”. Rồi cô nghe tiếng Joseph trả lời, “Tất nhiên là ổn rồi. Nếu không thì anh bảo em vào trong này làm gì?”.

Rachel nhấc thanh chặn cửa, tuy nhiên, cô không sao mở được cánh cửa ra một cách đàng hoàng. Cô lùi lại vài bước, vòng tay ôm chặt lấy eo mình, sau đó mới nói lớn, “Cửa mở rồi đó, Joseph. Anh vào đi”.

Cánh cửa kêu lên vài tiếng cót két khi được mở ra, rồi cô nhìn thấy màu tóc vàng của Joseph. Đôi mắt xanh sáng rực của hắn xuất hiện ngay sau, hắn nhìn cô dò xét một lúc rồi mới đẩy cửa mở ra hết cỡ. Trong khoảnh khắc tiếp theo, cô đón vị khách đầu tiên bước vào trong nhà bếp. Người thanh niên cao ngang tầm với Joseph, cả người cậu bọc kín trong chiếc áo khoác da cừu với phần cổ áo dựng lên. Chiếc mũ cao bồi rộng vành che phủ từ đỉnh đầu cho đến sát rìa tai cậu. Không giống Joseph, người anh em này có mái tóc cắt ngắn chỉ để ra vài phân, còn về màu sắc thì cô chịu không nhận biết được. Ngay sau đó cậu làm một động tác đẩy nhẹ vành mũ lên và cô nhìn thấy đôi mắt đó. Màu mắt xanh của Joseph. Cả khuôn mặt cũng giống nhau nữa. Và mặc dù không được đẹp trai như Joseph, nhưng theo như cô thấy, cậu cũng có chiếc mũi cao hơi gẫy, xương gò má nhô lên và một khuôn hàm khỏe khoắn như thế.

“Xin chào”, cậu ta nhấc mũ chào cô một cách lịch sự. Rachel cứ nhìn chằm chằm cậu, tự nhủ mình việc quái gì phải sợ hãi vậy chứ. Chàng trai này dễ thương như thế.

Khuôn mặt cậu vẫn còn có nét trẻ con mềm mại, trong khi anh trai cậu, Joseph, có khuôn mặt cương nghị hơn với các đường nét cứng cáp như tạc tượng.

“Xin chào. Cậu chắc hẳn là David.”

David ném cho Joseph một ánh nhìn bối rối. Rồi cậu quay sang nở một nụ cười toe toét với Rachel. “Vâng, thưa cô, là tôi.”

Joseph chặn cửa rồi vỗ vào vai cậu em một cái, hắn nói, “Cởi cái áo đó ra đi. Rachel, tôi đã hứa sẽ đãi anh chàng này một bữa tối đàng hoàng rồi. Chúng ta còn nhiều đồ ăn lắm, phải không?”.

“Tất nhiên rồi.” Cô đón lấy chiếc áo khoác vẫn còn bám hơi lạnh ban đêm của David, rồi đưa tay vuốt nhẹ lên bề mặt bằng da của nó, trên này thậm chí còn có mùi không khí ngoài trời nữa. “Nào, David, lại bàn ăn ngồi đi. Đồ ăn vẫn còn ấm và cậu hoàn toàn được chào đón ở đây mà.”

Hai người đàn ông ngồi vào bàn, trong khi Rachel bận rộn xung quanh bếp chuẩn bị cho David một đĩa thức ăn.

Niềm vui râm ran lan tỏa trong từng mạch máu của cô, cả người cô như tràn ngập một cảm xúc ấm áp rất tuyệt vời. Cô đang đón tiếp một vị khách. Hơn nữa cô hoàn toàn không thấy bất cứ dấu hiệu nào của chứng khó thở. Cậu ta là một người lạ, đúng rồi, mà cũng không phải, không hẳn là người lạ. Cậu ta là em trai của Joseph, là em chồng của Caitlin. Rachel cảm giác giống như cô đã quen biết người này rồi.

Khi David bắt đầu cắm cúi vào bữa ăn, Rachel cũng đến ngồi cùng hai người. Joseph đã hết chủ đề để nói nên cũng im bặt. Khi cô ngồi đối diện với hắn, Joseph đẩy cuốn Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer về phía cô. “Đọc cho chúng tôi nghe đi nào, cô gái. David cũng chưa nghe truyện này bao giờ.”

“Nhưng hai chúng ta đã đọc qua đoạn đầu rồi còn gì”, cô phản đối.

“Nhưng bây giờ mới đến đoạn hay”, Joseph vặn lại. “Tin tôi đi, cậu ấy sẽ thích nó.”

Rachel vuốt thẳng các trang sách và bắt đầu đọc. Trong không gian tương đối tĩnh lặng, cô có thể nghe thấy tiếng quai hàm David vang lên chóp chép hệt như Joseph lúc nhai thức ăn và một cảm giác yên bình thật dễ chịu bao trùm xung quanh cô.

Lúc này Tom đang lén rời khỏi đảo Jackson trong đêm tối để về nhà và viết một bức thư cho dì Polly, để cho bà biết nó vẫn còn sống. Thế nhưng khi vừa bước chân vào nhà, Tom nghe thấy tiếng dì của nó cùng với bà Harper đang bàn bạc chuyện nên chôn cất nó như thế nào. Thế nên nó đành quay trở về hòn đảo, ở đây nó và mấy đứa bạn quyết định sẽ quay lại thị trấn để tham dự lễ tang của chính mình, rồi mới cho mọi người biết bọn nó còn sống.

Rachel dừng lại để lật sang trang khác, cô phát hiện lúc này David đã bỏ dở cả bữa ăn của mình. Cô ngước lên, thấy cậu đang nhìn chằm chằm vào mình, cô hỏi cậu, “Có phải đồ ăn mất ngon rồi không?”.

David giật mình tỉnh lại và bắt đầu cắm cúi ăn lần nữa. Khi hai má đã nhét đầy những thịt, cậu nói, “Không phải, thưa cô. Đồ ăn rất tuyệt. Là vì tôi chẳng bao giờ nghe nói có ai lại đến tham dự lễ tang của chính mình”.

Rachel mỉm cười và tiếp tục đọc. Sau khi đã quay trở về trường, Tom và mấy đứa bạn trở thành nỗi ghen tỵ của hầu hết những đứa trẻ. Nhưng Tom vẫn không thể nào chiếm lại được trái tim của Becky.

“Becky là ai?”, David hỏi.

Joseph kể vắn tắt lại từ đầu câu chuyện cho đến đoạn bọn họ đang đọc, rồi ra hiệu cho Rachel đọc tiếp.

Tom Sawyer bắt gặp Becky đang lén lút đọc quyển sách của thầy giáo, nó dọa con bé sợ chết khiếp, đến nỗi làm rách cả một trang sách. Cuối ngày hôm đó khi Becky sắp bị thầy giáo vạch trần, nó đã đứng dậy và tự nhận mình làm hỏng cuốn sách. Thế là Tom phải chịu phạt thay cho Becky và cuối cùng cũng làm cho con bé ngưỡng mộ nó trở lại.

“Đúng là một thằng bé si tình”, David nhận xét.

“Im lặng”, Joseph nói. “Để yên cho cô ấy đọc chứ.”

Trong khi David thưởng thức món bánh táo tráng miệng của Rachel, phiên tòa xét xử gã Muff Potter cũng bắt đầu. Cả thị trấn đều nghĩ người đàn ông vô tội này đã giết người. Tom và Huck lúc đó bị cảm giác tội lỗi dằn vặt, vì chúng nó đã tận mắt chứng kiến gã Joe Da đỏ giết tay bác sĩ và biết chắc Muff vô tội. Hai đứa lại càng áy náy hơn khi Muff nói lời cảm ơn chân thành vì chúng nó đã đối xử tốt với gã.

David lôi đồng hồ ra xem giờ. “Thật là một buổi tối tuyệt vời”, cậu nói. “Nhưng nếu tôi không về nhà bây giờ, sáng mai chắc tôi sẽ phải lết dậy trên giường mất. Bây giờ đã qua chín giờ tối rồi.”

Rachel đóng quyển sách lại. Trước kia cô cũng từng phải lo lắng về thời gian giống như cậu vậy. “Tối nay tôi rất vui vì có cậu ghé thăm”, cô nói với David. “Có dịp cứ vào chơi nữa nhé.”

David vươn tay ra chạm vào cuốn sách. “Tôi sẽ lại đến. Nhưng hai người không được đọc tiếp mà không có tôi đâu đấy.”

“Như thế làm sao được”, Joseph phản đối. “Trừ khi tối mai em quay lại đây và nghe đọc tiếp. Anh sẽ không chờ em cả tuần hay đại loại thế đâu.”

Bọn họ thống nhất là David sẽ lại đến vào buổi tối ngày hôm sau, nhưng phải sớm hơn để có thể cùng ăn với Rachel và Joseph. Cuối cùng mọi chuyện cũng đã dàn xếp xong, tối ngày mai, ba người sẽ thay phiên nhau đọc to câu chuyện.

Joseph đưa em trai ra ngoài, dắt theo Buddy, để cho con chó dạo vài vòng vận động gân cốt trước giờ đi ngủ. Rachel thì bận rộn dọn dẹp trong nhà bếp, trong khi hai người đàn ông ra ngoài, cô phải rửa đống bát đĩa David vừa mới ăn và để đồ ăn thừa vào trong thùng ướp lạnh. Cô vừa miết phẳng lại góc khăn trải bàn thì nghe thấy Joseph gõ vài tiếng lên cánh cửa.

Cố gắng đè xuống cảm giác sợ hãi mà cô biết là vô lý, Rachel căng thẳng đi ngang qua căn phòng. Cô rướn người đến gần cánh cửa và gọi, “Joseph, là anh hả?”.

“Không, là Joe Da đỏ đây”, hắn nói lớn.

Buddy cũng đáp lại với một tràng âm thanh yaw-yaw-yaw. Cô cười khúc khích và nhấc thanh chặn cửa để Joseph có thể đẩy cửa đi vào, con chó nhanh nhảu lách vào trước.

“Rồi, giờ thì”, hắn nói, “hay thật đấy. Tôi nghĩ David nghiện Tom Sawyer mất rồi”. Hắn quay lưng lại gài chặt cửa. “Bây giờ, cô đã được an toàn khi ở trong này, vậy nên tôi sẽ đi lấy túi ngủ và đánh một giấc ở phòng ăn ngoài kia vậy.”

“Nhưng ngoài đó lạnh lắm.”

“Nếu không có gió thì tôi có thể ngủ ở ngoài trời trong cái lạnh chết chóc cũng được ấy chứ. Buddy và tôi sẽ ổn thôi.” Hắn ghim vào cô một ánh nhìn đầy ẩn ý. “Cô và tôi ở chung một phòng không được hay lắm.”

Điều này chẳng quan trọng với Rachel. “Nhưng, Joseph à, ai biết được chứ?”

“Tôi biết”, hắn trả lời.

“Vậy anh ngủ trong nhà tắm đi. Như thế cũng tính là ngủ khác phòng, với lại, trong đó so với bên ngoài còn ấm hơn một chút.”

Hắn nhướng một bên lông mày nhìn cô. “Cô vẫn còn thấy sợ hả?”

Hiện tại, cánh cửa chặn trên cổng tò vò đã đủ chắc chắn để khiến cô cảm thấy an toàn. “Có, một chút.” Cũng không hẳn là một lời nói dối, cô nghĩ. Lúc nào cô chẳng có chút lo lắng. “Tôi sẽ yên tâm hơn nếu có anh ở trong này với tôi.”

“Cô chắc chứ?”

Rachel chưa từng chắc chắn về bất cứ điều gì trong đời cô hơn lúc này.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 27
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 27
  • Sau