Gió quất từng cơn lạnh buốt vào ngôi nhà hai tầng. Sau từng tiếng kêu kẽo kẹt, rên rỉ của căn nhà đã quen với nắng và gió, dây thần kinh của Rachel Hollister căng lên một chút. Nếu khéo tưởng tượng hơn thì hẳn cô sẽ tin mình nghe thấy tiếng ai đó lén lút lẻn vào nhà hoặc tiếng sàn gỗ trĩu xuống dưới bước chân người nào đó. Để giữ tinh thần được tỉnh táo và nén cơn nhộn nhạo vì sợ hãi đang trực trào lên trong dạ dày. Cô ngồi đó vừa ngâm nga giai điệu của bài “Oh! Susannah”, vừa thầm nhủ sẽ chẳng ai xâm nhập được vào nơi ở của mình, trừ khi hắn phá bỏ được hàng rào trước cánh cổng tò vò từng dẫn thẳng tới phòng ăn trước kia.
Mái tóc vàng óng buông dài vẫn còn vương hơi ẩm sau khi tắm, từng lọn tóc xoăn tùy ý uốn lượn theo đường nét khuôn mặt Rachel Hollister. Cô ngồi trên chiếc ghế mây gần lò sưởi của mẹ cô trước kia với một chiếc chăn len trùm quanh vai, những ngón chân xỏ trong đôi dép thêu đi trong nhà gác lên cạnh lò sưởi, chiếc váy ngủ Mother Hubbard bằng vải muxơlin vén cao quá cẳng chân để ngọn lửa có thể sưởi ấm đôi chân trần của mình.
Bên cạnh cô, một chiếc đèn phòng khách bằng kim loại có hoa văn tinh tế phát ra âm thanh xì xèo nhè nhẹ trên mặt bàn đá ốp cẩm thạch, mái vòm thủy tinh sơn tay của chiếc đèn tỏa ra thứ ánh sáng dịu dàng quanh cô gái đang chăm chú đan móc.
Ngoài lúc đọc sách thì đây cũng là một trong những thú vui tiêu khiển ưa thích thường ngày của cô. Rachel đang hoàn thiện chiếc vòng cổ ren kiểu Ireland, một món đồ sáng tạo và tinh tế cô dành để làm từ thiện. Mặc dù cô không còn được tham dự các buổi lễ vào mỗi Chủ nhật nữa, nhưng Darby, lão quản đốc già của trang trại thỉnh thoảng vẫn đến dự. Ông nói Hannibal St. John, vị mục sư mới của nhà thờ duy nhất ở No Name luôn luôn hoan nghênh mọi người đóng góp cho người nghèo. Rachel chẳng có mấy việc để làm nên thường cố gắng đóng góp bằng mọi cách có thể, công việc nhỏ nhưng lại khiến cô cảm thấy bản thân sống có ích hơn và đủ bận rộn để lúc nào cũng giữ được tỉnh táo.
Mùa đông vừa rồi cô đã làm vô số thứ đồ nhỏ nhỏ xinh xinh dùng trang trí mặt bàn hoặc quần áo, hàng may mặc, còn có những đôi tất len cho phụ nữ và trẻ con. Đồ cô làm ra nhiều đến mức Darby có lúc còn chọc cô nên mở luôn một cửa hiệu để bán chúng lấy tiền.
Rachel hơi cau mày, ước gì cô có thể. Cô thường làm bơ và pho mát, hai thứ này Darby mang bán cho cửa hàng tạp hóa của Gilpatrick rất dễ dàng, cô cũng thu được ít tiền từ việc bán trứng gà của trang trại. Tuy nhiên, chút tiền mặt nhỏ giọt đó không thể bù lại được phần thu nhập bị mất của Bar H. Từ khi cha cô mất và những người làm trước đây cũng bỏ đi, năm năm nay, một mình Darby phải gách vác toàn bộ công việc ở trang trại. Trừ những thứ cần thiết, ông đã cắt giảm đàn gia súc chỉ để lại vài con, vì thế số tiền thu được từ thịt bò cũng ít đi rất nhiều.
Có thời gian, Rachel cố kiếm thêm tiền bằng nghề may thuê nhưng không cạnh tranh nổi với cửa hàng quần áo của Clarissa Denny trong thị trấn. Sau này cô mới chuyển sang đan móc, thêu ren và các loại vải thêu trang trí nhỏ, hy vọng sản phẩm mình làm ra có thể được bày bán cùng với những thứ khác trong sạp hàng của một vài cửa hiệu trên phố Main Street. Nhưng cuối cùng thì đồ của cô cũng bị trả lại, khi Darby mang về, chúng đã ố vàng và bám đầy bụi bẩn vì quá lâu không có ai chạm đến. Bây giờ người ta có tiền vì thế họ thích mua những mặt hàng may sẵn ở cửa hàng hơn là tự đặt may.
Cũng có thể do cô tự an ủi mình như thế. Nếu không thì chỉ có một lý do khác nữa, đó là sự ngần ngại của mọi người khi phải mua hàng của người đàn bà mà họ vẫn cho là điên rồ làm ra - cái lý do đáng thất vọng mà cô không muốn nhắc tới. Làm gì đi nữa thì cô cũng không thể thay đổi được thái độ của người khác với mình, mà bản thân cô cũng càng buồn nếu như cứ cố nghĩ về nó. Cô muốn sống như thế này lắm sao? Trước kia cô khao khát ánh mặt trời và muốn cảm nhận sự dịu dàng của từng làn gió bao nhiêu thì hiện tại chính cô lại sợ phải đối mặt với nó bấy nhiêu. Cô sợ mình sẽ bị bóp nghẹt đến khi mất đi ý thức nếu như dám bước, dù chỉ nửa bước, ra thế giới bên ngoài!
Hiện tại, cô chỉ có thể cảm thấy an toàn phía sau hai ổ khóa chết và thanh gỗ dày chặn kín cánh cửa trước nhà.
Rachel thở dài, đặt đồ đan móc trên tay vào chiếc giỏ để dưới chân rồi đi đến khuấy nồi thịt hầm đang sôi sục trên mặt bếp Windsor. Darby sẽ về tới nhà sớm thôi, đến lúc đó bữa tối của ông phải được đặt sẵn trong chiếc hộp gỗ lim thông với bên ngoài. Cô phải vặn to lửa lên và nhanh chuẩn bị bánh mì ngô để cho vào lò nướng, nếu không lão quản đốc sẽ cáu tiết khi thấy các món chưa được dọn ra đúng giờ.
Đôi khi Rachel cũng phải khá vất vả mới bắt kịp được giờ giấc của Darby. Bởi vì tất cả cửa sổ trong nhà đều bịt kín trong ngoài bằng ván gỗ nên cô chẳng thể biết bên ngoài trời đang sáng hay đã về đêm, do đó cũng khó nắm bắt thời gian trong ngày. Có lúc nếu căng tai ra thì cô cũng nghe thấy tiếng gà gáy báo hiệu bình minh, hoặc có thể phân biệt được đang là buổi sáng hay buổi chiều nếu chú ý hơn đến từng cơn gió thổi vào nhà. Nhìn chung, Rachel giống như đang sống trong một chiếc limbo vậy và nếu không có cái dạ dày thường xuyên kêu gào của Darby thì chắc cô cũng mất hẳn khái niệm đêm và ngày.
Ý nghĩ ấy làm Rachel mỉm cười, cô cho thêm củi vào bếp rồi vặn van điều chỉnh lửa. Nói đến thỏa thuận của cô với Darby thì hẳn cô là người được lợi hơn cả. Cô chỉ cần nấu ăn cho ông mỗi ngày và trả một mức lương trung bình hằng tháng, đổi lại Darby sẽ giúp cô chèo chống toàn bộ trang trại và lo cho cô mọi thứ cô cần. Cũng nhờ có Darby mà cô hầu như không thiếu thốn thứ gì, dĩ nhiên là ngoại trừ những lúc cần có người để nói chuyện. Darby thực tế rất kiệm lời, hệt như một người đàn ông cả đời lam lũ kiếm từng đồng từng cắc vậy.
Rachel đoán Darby trở nên ít nói như vậy là do ảnh hưởng từ công việc, khi mà cả đời ông chỉ quen đơn độc trên lưng ngựa với đàn gia súc rong ruổi qua những ngọn đồi. Những lúc hiếm hoi ông lầm bầm vài câu ngắn với cô là qua vách cửa hoặc tấm ván gỗ, nhưng cũng chỉ có thế. Vì vậy, Rachel chỉ có thể thỏa mãn nhu cầu trò chuyện trong những giấc mơ, khi từng mảng ký ức được tái tạo, cô có gia đình, cha mẹ và anh chị em cười nói vui vẻ bên bàn ăn, hoặc hò hét trò chuyện khắp nơi trong ngôi nhà.
Để mặc suy nghĩ trôi đi, cô bắt tay vào hoàn tất món bánh mì ngô ưa thích. Cô thích nướng bánh, có lẽ một phần vì bị thu hút bởi các loại túi và hộp đựng nguyên liệu đủ màu sắc để đầy trên kệ. Ví dụ như túi bột mì Gold Medal in hình đầu bếp mặc bộ đồ màu đen, đầu đội chiếc mũ cao đang khuấy một cái thùng; hộp bột nở hiệu Royal Baking Powder với màu đỏ sậm đẹp mắt. Còn cả lọ muối ăn tráng men lốm đốm màu xanh da trời, một trong những gam màu ưa thích của cô nữa. Túi bột ngô với hình một cây ngô trĩu bắp điểm thêm sắc xanh, vàng tươi mát vào bộ sưu tập cùng với hộp GARNEL MILLS màu đỏ tươi cuộn phía trên cùng.
Rachel thích nướng bánh cũng không phải chỉ vì những thứ nhiều màu sắc đó. Cô yêu thích mùi thơm ngào ngạt của bánh tỏa ra khắp phòng, nó gợi nhớ đến khoảng thời gian hạnh phúc sống cùng mọi người trong gia đình, cậu em trai mười bốn tuổi nghịch ngợm Daniel, em gái Tansy mới lên năm tuổi chạy lon ton khắp nhà và mẹ cô luôn miệng la mắng những đứa con bất trị. Cô rất nhớ những ngày tháng êm đềm đó. Cô nhớ Denver, con chó cũng đóng góp không nhỏ vào khung cảnh ồn ào ấy với cái đuôi ngoáy tít và đôi mắt ánh lên tia vui mừng. Bố cô, Henry Hollister, thường phàn nàn vì con chó chạy lung tung trong nhà, nhưng thực ra chính ông cũng dung túng cho nó không kém những thành viên khác.
Rachel cắt một miếng đường bỏ vào bát trộn rồi nghiền nát nó thành những hạt nhỏ, dòng ký ức cũng dần thu lại tựa một chiếc áo choàng ấm áp sưởi ấm trái tim cô. Cuộc sống có khi thật phũ phàng, cô không hề phủ nhận, nhưng cô biết nó cũng mang lại nhiều điều tuyệt vời. Vì thế, một người phải học cách quên đi đau khổ và cố gắng níu giữ những điều tốt đẹp cuộc sống ban tặng cho mình.
Khi đã trộn đều các nguyên liệu khô với nhau, cô lấy sữa và trứng gà từ trong thùng ướp lạnh, đun chảy một ít mỡ lợn rồi nhanh chóng hoàn tất mẻ bánh để cho vào lò. Xong xuôi, cô quyết định làm thêm món bánh tráng miệng nóng vị đào để thưởng thức trong những ngày tháng Ba nhiều gió. Darby thích ăn ngọt, mà cô thì cũng chẳng kém gì, bằng chứng là vòng eo của cô đang ngày càng to ra. Nhìn vào dáng hình cô gái phản chiếu trong gương nhà tắm, Rachel thấy mình chưa hẳn là béo, nhưng cứ cái đà này thì vài năm nữa cô sẽ phát phì mất thôi. Hiện tại cô cũng không thể ra ngoài đi dạo hay cưỡi ngựa để giữ dáng như trước nữa, vậy nên để thoát khỏi sự nhàm chán, cô đành phải tập trung vào thỏa mãn thói thèm ăn của mình. Mà gần đây cô lại còn nghiện món chocolate tự làm béo ngậy nữa chứ.
Cầm lấy chiếc đèn trên bàn rồi đi đến nhấc thanh chặn cửa, Rachel đi qua bốn nhịp cầu thang gỗ xuống tầng hầm để lấy lên một hũ Mason1 bảo quản đào từ vụ trước. Vài phút sau, cô đã quay trở lại, vừa nhấm nháp những giọt nước ép đào chảy ra từ trong hũ vừa bận bịu trộn đều hỗn hợp bột bánh. Lát nữa Darby sẽ về, đến khi ông ăn xong bữa tối và mang đĩa đồ ăn thừa trở về từ chỗ nghỉ dành cho cao bồi2 ngoài kia thì món bánh tráng miệng ngon lành của cô cũng đã sẵn sàng chờ thưởng thức.
1 Hũ Mason: Lọ thủy tinh rộng miệng được thiết kế đặc biệt để bảo quản hoa quả, mứt qua mùa đông.
2 Nguyên tác là “bunkhouse”: Chỗ nghỉ ngơi của những chàng cao bồi làm việc tại các trang trại ở Bắc Mỹ, thường là nhà gỗ một gian với những chiếc giường hẹp và lò củi để sưởi ấm.
Vừa lúc cô chuẩn bị xong món bánh hoa quả để cho vào lò thì ổ bánh mì ngô cũng đã nướng xong. Trong khi chờ bánh chín, cô ngồi vào bàn ăn tiếp tục đọc cuốn Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn, một cuốn tiểu thuyết cực kỳ lôi cuốn mà theo cảm nhận của cô, mỗi đoạn đều hay không kém gì Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer, tác phẩm ưa thích của cô từ trước đến nay, tất nhiên là không kể đến cuốn Jane Eyre và Những phụ nữ nhỏ bé.
Ngón trỏ nghịch ngợm khẽ ấn một bên má lõm xuống, Rachel tìm kiếm trang sách mình đang đọc dở, vài giây sau, cô lại một lần nữa chìm đắm vào khung cảnh ẩm ướt hai bên bờ sông Mississippi. Bóng tối bao phủ xung quanh cô, chỉ có ánh sáng từ ngọn đèn măng sông của Jim vẫn chiếu rọi trong bóng đêm.
Vài phút sau, mùi bánh nướng hoa quả dậy lên từ lò nướng kéo cô trở về hiện thực, cô giật mình: “Chết rồi!”. Cô bật dậy, chạy thẳng đến chỗ lò bánh, vừa chạy vừa cầu nguyện mình sẽ không làm cháy món tráng miệng ngon lành kia. Cô dùng vải lót tay cho khỏi bỏng rồi gấp gáp kéo khay bánh ra khỏi lò, thở phào nhẹ nhõm vì may mắn là mẻ bánh chưa cháy xém tới mức khó coi.
“Ơn Chúa”, cô cảm thán, “Bao giờ mình mới sửa được cái tật vừa nướng bánh vừa đọc truyện đây?”.
Cô phủi phủi bụi bám trên tay sau khi điều chỉnh lại van bếp, đưa mắt nhìn đồng hồ trong lúc quay trở lại bàn. Sáu giờ năm phút. Darby không hay về trễ như thế này. Cô tự hỏi liệu có phải con ngựa thiến già của ông lại dở chứng đi như què rồi không? Chắc không phải, cô hy vọng thế. Darby chăm chút con ngựa như thể nó mới vài tháng tuổi vậy.
Rachel ngồi lại trên ghế, tiếp tục đọc trang sách đang để dở và thầm ước ngay lúc này đây cô cũng được sống trên đảo cùng với Huck và Jim. Ý nghĩ vừa lóe lên cô đã tự chế giễu mình. Chỉ riêng việc vứt bỏ nỗi sợ hãi đã ăn sâu vào tiềm thức để bước ra ngoài kia thôi mà cô còn không thể, sao cô dám mơ đến những cuộc phiêu lưu tuyệt vời trên dòng Mississippi sâu thẳm đầy khuấy động kia?
Joseph kéo mạnh dây cương cho Obie dừng lại tại sân sau nhà Rachel Hollister. David theo ngay sau hắn, con ngựa màu nâu đỏ thở phì phì, vó ngựa chân trước giậm xuống đất kêu huỳnh huỵch. Một khoảng lặng bao trùm khi hai người đàn ông nheo mắt nhìn qua bóng hoàng hôn mờ mờ để quan sát ngôi nhà hai tầng to lớn trước mặt. Mọi cửa sổ đều đã được bịt kín bằng ván gỗ, thậm chí không có lấy một tia sáng lọt qua khe ra ngoài.
“Thật không thể tin được!”, Joseph kinh ngạc lẩm bẩm. “Anh nghe nói cô ấy tự mình bịt kín tất cả cửa sổ trong nhà, giờ nhìn tận mắt anh mới dám tin.”
David rùng mình kéo cao cổ áo khoác, trả lời: “Anh có chắc chúng ta không nên vào bằng cửa trước? Chỉ những ai có ý đồ xấu mới gõ cửa sau nhà một người phụ nữ thôi”.
“Em nghe Darby nói rồi chứ, cô ấy sống ở nhà bếp phía sau, tách biệt khỏi những phần khác của ngôi nhà.”
“Anh cho là cô ấy sẽ trả lời nếu chúng ta gõ cửa?” Joseph không trả lời, tung người xuống ngựa và buông thõng dây cương, tự tin rằng con ngựa Obie sẽ có thể tự đứng yên như đã được huấn luyện từ trước. “Chỉ có một cách để biết”, hắn nói.
Khi Joseph băng qua khoảng đất ngắn đã đông cứng và phủ đầy cỏ dại dẫn đến phần hiên sau lớn bằng hai phần ba chiều rộng cả ngôi nhà, hắn không khỏi lấy làm lạ về con người đã lựa chọn sống ở đây. Bốn năm sống tại No Name hắn cũng đã nghe không ít lời bàn tán về Rachel Hollister, đều là các câu chuyện kỳ dị như cô nuôi dơi bên trong tháp chuông chẳng hạn. Nhưng hắn chẳng ngờ tới cô ta lại điên tới mức này, một người phụ nữ sống trong cái hố đen, trốn tránh cả thế giới.
Joseph quan sát kỹ mặt phía sau đã được tu bổ bên ngoài ngôi nhà, David cũng đi lên sánh vai với anh. Cửa sau dày phải đến bốn inch3, được ghép từ nhiều tấm ván gỗ sồi mà chỉ có thể dùng phiến gỗ nặng chuyên phá cổng thành mới mong phá bỏ được. Phía bên trái cửa gần ô cửa sổ kín bưng cố định một hộp gỗ lim lớn, Joseph cũng làm một cái như thế ở nhà mình, đồ đạc có thể đặt vào một cách an toàn từ phía ngoài và người bên trong bếp cũng dễ dàng lấy ra. Hắn đoán thường ngày Darby luôn nhét đầy củi vào hộp để cô gái nhà Hollister không bao giờ phải ra ngoài kiếm củi sưởi ấm. Joseph đứng ở mái hiên giậm mạnh chân để giũ sạch đôi bốt trong khi David vẫn theo sát từng bước phía sau. Hy vọng hai anh em sẽ được mời vào nhà sưởi ấm mà không phải đứng chờ dưới cái lạnh ngoài này. Khi cả hai đã đứng sánh vai trước cửa nhà, Joseph liếc nhìn em trai một cái rồi giơ tay lên gõ cửa.
3 Inch là đơn vị đo lường của Anh. Một inch tương đương với 2.54 cm.
Rachel nghe tiếng bước chân vang lên ngoài hiên nhà, cô gấp sách lại, đoán rằng Darby đã về tới. Nhưng khi người đó bắt đầu đập cửa, cô như thể hồn lìa khỏi xác. Không phải Darby. Ông lần nào cũng chỉ đập đập vài cái vào thùng gỗ lim để cô biết ông đã về nhà.
“Cô Hollister?” Một người đàn ông gọi to.
Rachel bật dậy, bất giác lùi lại một bước. Đã lâu lắm không có ai đến gọi cô như thế, cô nhớ vị khách cuối cùng từng tới nhà mình là bác sĩ Halloway, nhưng đó cũng là bốn năm trước đây rồi.
“Ai… ai đấy?” Cô gọi, giọng lí nhí vì lo lắng.
“Joseph Paxton, hàng xóm của cô”, giọng nói trầm thấp lại vang lên. “Trang trại của tôi ở ngay ở rìa phía nam.”
Rachel mơ hồ nhớ lại Darby từng nói về việc ai đó đã mua lại dải đất phía nam trang trại, nhưng cô lại chẳng có ấn tượng gì với cái tên Paxton này cả. Cô xoay người chạy đến chỗ giá súng nằm giữa bàn đọc sách và tủ quần áo, không do dự với lấy khẩu Colt. Đó là một khẩu súng săn sử dụng loại đạn 10-gauge có nòng súng thu ngắn, thứ mà Darby đã khẳng định là có thể bắn chết cả con gấu xám Bắc Mỹ đang điên cuồng. Ở cự ly gần, cô chỉ việc nhắm bắn và kéo cả hai cò súng. Rachel không muốn bắn bất cứ ai, nhưng để an toàn cô buộc phải lên nòng sẵn, phòng trường hợp bất trắc.
Rachel sợ đến nỗi chân tay run lẩy bẩy, cô làm rơi vài viên đạn từ trong ngăn kéo trong khi cuống cuồng giật mở nó ra. Nhanh lên, nhanh lên nào! Cô gần như kéo hỏng nòng súng, nhét vội vàng từng viên vào ổ đạn, rồi thô lỗ đóng nó lại như cũ. Trong căn phòng yên tĩnh đến bất thường, tiếng soàn soạt nhỏ của khẩu súng làm từ thép Đamat4 cũng trở nên ồn ào đến chói tai.
4 Thép Đamat (Thép Damascus): Một loại thép truyền thống dùng để rèn kiếm của vùng Trung Đông, với đặc trưng là các vân kim loại nổi bật với các vết lốm đốm như nước chảy.
Cô loạng choạng quay mặt về phía cửa chặn, tỳ báng súng vào hông rồi hét lên: “Nói mau, anh định làm gì?”
Rồi cô nghe thấy tiếng bốt giầy lộn xộn nện xuống sàn gỗ ngoài hiên. Không phải một người? Rachel ớn lạnh. Ôi, lạy Chúa. Lạy Chúa. Darby, ông ở đâu? Bọn họ đã làm gì ông rồi? Lão quản đốc chưa bao giờ về muộn thế này… trừ khi ai đó đã làm hại ông.
“Tôi có chuyện khẩn cấp, không thể nói qua vách cửa được”, người đàn ông trả lời. “Có cảnh sát trưởng đi cùng tôi, nên cô có thể yên tâm.”
Cảnh sát trưởng? Tim Rachel đập loạn.
“Cô có thể mở cửa một lúc được không, thưa cô?”, một người đàn ông khác cất giọng hỏi. “Tôi là David Paxton, cảnh sát trưởng của thị trấn No Name. Tôi đảm bảo sẽ không có chuyện gì xấu xảy ra với cô.”
Rachel cong ngón trỏ đặt trên cò súng, sẵn sàng nổ súng ngay khi bọn họ cố gắng bước vào nhà, cô hét: “Nói đi, các anh đến đây làm gì? Tôi vẫn nghe rõ qua cánh cửa”, rồi nuốt khan một cái để ổn định giọng nói. “Lát nữa quản đốc của tôi sẽ về, nếu cần nói chuyện trực tiếp, các anh cứ việc đợi rồi nói với ông ấy.”
Hai bên lại im lặng. Người đàn ông đầu tiên nói tiếp: “Đó cũng chính là lý do chúng tôi đến đây, cô Hollister, để thông báo về tình trạng của ông quản đốc. Khoảng ba giờ chiều nay, ông ấy bị thương và cố gắng cưỡi ngựa đến trang trại của tôi nhờ người giúp”.
“Bị thương?” Lo lắng cho Darby, Rachel ngập ngừng tiến một bước về phía cửa, sau đó cô định thần lại, không bước tiếp nữa. Cô chỉ có một mình, hàng xóm gần nhất cũng cách hàng dặm, thế nên tin tưởng hai kẻ lạ mặt là chuyện cực kỳ điên rồ.
“Ông ấy bị thương thế nào?” Rachel từ nhỏ đã sống trong trang trại nên cũng ý thức được hầu hết các mối nguy hiểm có thể xảy ra. Darby có thể bị dây thép gai cứa, ngã từ trên lưng ngựa xuống mặt đá lởm chởm, hoặc bị bò đực húc, đó cũng chỉ là vài khả năng. Hoặc không may ông cũng có thể bị hai tên trộm vặt phục kích. Ngoài kia lại vọng vào tiếng đàn ông thấp giọng lầm rầm, cuối cùng người tự xưng là Joseph Paxton lên tiếng: “Lúc đó ông ấy đang ở rìa phía bắc trang trại của cô, cô Hollister, để tìm một con bò cái. Khi ông quay người rời khỏi những tảng đá và đi về hướng con lạch thì bị người ta bắn sau lưng”.
Bị bắn? Cái từ đó cứ luẩn quẩn mãi trong đầu Rachel, những ký ức kinh khủng trước đây cứ lần lượt tái diễn ngay trước mắt cô. Cô biết chỗ anh ta vừa nói là nơi nào, nó bám riết lấy giấc mơ của cô mỗi đêm. Chúa ơi, điều đó không thể tái diễn được, làm ơn, đừng để nó xảy ra lần nữa. Một tiếng đinh xa lạ vang lên bên tai, cô cũng không còn cảm nhận được đôi chân mình nữa.
Từng cảnh tượng lần lượt hiện ra trước mắt cô, hình ảnh gia đình cô, em gái cô Tansy say sưa đuổi theo những con bướm, cha cô ngồi bên bờ con lạch chơi vĩ cầm còn mẹ cô nhảy múa bên cạnh. Cuối cùng là em trai cô, Daniel, mái tóc vàng lấp lánh dưới ánh mặt trời và nụ cười tinh nghịch của nó khi vật lộn tranh giành với cô miếng đùi gà quay cuối cùng trong giỏ picnic.
Rachel lê bước đến bàn ăn rồi sụp người xuống ghế, cô lờ mờ nghe thấy Joseph Paxton nói gì đó với mình nhưng không tài nào bắt được một từ, tai cô như thể đổ đầy nước vậy. Darby, bị bắn. Cô không thể tập trung vào bất cứ khái niệm nào, cũng như chẳng thể tin chuyện lại xảy ra lần nữa, ở đúng chỗ đó, nơi gia đình cô bị giết. Không, không, không.
Trước mắt cô chỉ là một màn sương mù màu đen che kín tầm nhìn. Rachel nắm chặt hai bàn tay thành nắm đấm, cô đã phải chịu đựng một lần và quyết không để nó xảy ra lần nữa. Không phải bây giờ, khi hai kẻ lạ mặt vẫn còn đang ở ngoài kia. Nhưng bóng tối kiên định cứ mỗi lúc một tiến gần hơn, cuộn thành một tấm màn đen dày không thể xuyên thủng bao kín lấy cô.