"Chết tiệt.” Joseph tức tối đá một khúc củi mồi gần đống gỗ nhà Rachel Hollister. “Chẳng đi đến đâu cả.” Hơi thở của hắn phả ra biến thành làn sương mờ trong bầu không khí lạnh, David thì cuộn hai vai ủ ấm trong áo khoác. “Em đang lo, sao tự dưng cô Hollister lại im lặng thế? Em biết là chúng ta không nên đứng ngoài này nói chuyện mà, anh còn nghĩ cứ thế mà báo tin cho cô ấy thì sẽ không sao.” David nói, nhìn Joseph trách móc.
“Cô ta không chịu mở cửa.” Joseph nhắc nhở cậu em. “Tiện thể anh nói em nghe, có cách nào báo một tin tức như vậy mà lại nhẹ nhàng được không? Đấy là anh còn nói lão bị thương trước khi báo tin lão bị bắn lén rồi đấy nhé.”
“Như thế vẫn quá thẳng, cô ấy có thể rất thân thiết với lão, Joseph ạ, đối với phụ nữ cái gì cũng cần phải thật dịu dàng.”
“Tin tức như thế làm sao nói nhẹ đi được?” Joseph phát cáu. “Nếu giỏi ăn nói đến thế thì lần tới sao em không đi mà nói?”
“Ok, em sẽ cân nhắc, cảm ơn!”
Joseph lại đá khúc củi. “Cứ làm như mình có sức hút lắm ấy, có khi nào thấy cậu mỗi tay ôm một cô vào tối thứ Sáu không?”
“Lại là gái hầu rượu”, David khịt mũi nhạo báng. “Anh nghĩ cứ nổi tiếng ở mấy quán bar kiểu như Golden Slipper nghĩa là mình quyến rũ lắm chắc? Trước giờ em còn chưa thấy anh quen với cô nàng nào đứng đắn được lâu cả.”
“Em thì hơn chắc.”
Bế tắc. Chẳng ai trong hai anh em có thói quen dính với phụ nữ trẻ đẹp mà lại đoan trang, đứng đắn cả. Thế nhưng người anh trai cùng mẹ khác cha mà cả Joseph và David cảm thấy ra dáng trụ cột gia đình hơn cả là Ace Keegan, so với hai người lại một trời một vực. Quan điểm của anh là khi đàn ông đã trêu đùa một người phụ nữ thì tốt nhất hắn nên nghĩ đến việc cưới cô ấy về làm vợ, chấm hết. Rất rõ ràng, họ Keegan và Paxton có tác phong khác hẳn nhau.
David thở dài, đá khúc củi trả lại Joseph. “Chỉ mong cô ấy không làm sao.”
“Chẳng ai tự mình cô lập bản thân trong một thế giới như thế lại không làm sao cả. Cô ấy còn sống, dù nửa điên nửa tỉnh cũng là may mắn lắm rồi.”
“Cả gia đình bị bắn chết, lần này có thể do cô ấy hoảng quá nên thần trí bất ổn cũng nên.”
Joseph cân nhắc giả thiết đó. “Anh nghĩ cũng có thể.”
Lại nghĩ đến tình cảnh của Darby, sống lưng hắn ớn lạnh: “Cô ấy có lý do để hoảng sợ như vậy”.
Trước khi tìm gặp Rachel, Joseph và David đã đi lên phía bắc cuối trang trại nhà Hollister để xem xét tình hình. Họ nhận ra chỗ Darby bị bắn và theo phân tích thì phát súng đó không thể nào là tai nạn bình thường được. Những dấu chân con ngựa của Darby để lại cho thấy ông ta bị bắn khi đang cưỡi ngựa hướng về phía con lạch. Nếu là đạn lạc thì nó sẽ trúng tảng đá nhô cao đằng sau Darby, do vậy chắc chắn có kẻ đã núp đằng sau đó và cố tình nhắm bắn vào lưng ông bạn già.
“Giờ thì sao?”, David hỏi.
Joseph biết cậu ta đang ám chỉ vụ nổ súng, có điều hắn cũng chưa biết sắp xếp các ý tưởng như thế nào. “Cô ấy sẽ cần có củi để sưởi ấm qua đêm, anh nghĩ chúng ta nên lo việc đó trước đã.”
Khi cả hai đã ôm đầy củi chẻ sẵn quay lại, David hỏi: “Đêm nay anh ở đâu? Trong căn nhà gỗ ngoài đó hả?”.
“Xa quá”, Joseph càu nhàu. “Nếu như điều Darby nói là đúng, rằng cô Hollister đang gặp nguy hiểm thì anh phải ở đây phòng khi có kẻ rình rập ngôi nhà.”
Hai tay ôm đầy củi, Joseph quay trở lại hiên nhà, cậu em trai theo sát phía sau.
“Vậy anh định ngủ chỗ nào? Trời lạnh cóng như thế này, em chẳng thấy chỗ nào có thể chắn gió cả.”
Họ bắt đầu nhét củi vào trong hộp gỗ lim. Khi quay lại chỗ đống củi mồi, Joseph nói: “Darby nói cô Hollister sống trong gian bếp tách biệt với các phần khác của ngôi nhà. Thế có nghĩa là tất cả các phòng còn lại đều bỏ không”. Vừa nói hắn vừa chất từng mảnh gỗ mỏng lên tay, “Anh sẽ lách vào từ cửa sổ tầng dưới, sau đó tìm chỗ nào đó để trải túi ngủ ra nằm, một chỗ càng gần phòng bếp càng tốt vì như thế anh sẽ biết khi có chuyện xảy ra với cô Hollister”.
Trên đường vào nhà, họ bắt gặp một con bò đang rống lên đầy ai oán, tiếng kêu của nó nhanh chóng bị nhấn chìm trong làn gió lạnh ban đêm.
“Anh chắc chắn sẽ ổn nếu vào trong?”, David nói, vừa giải thoát gánh nặng trên tay mình. “Cô ấy có vẻ khá hoảng sợ.”
Joseph phủi bụi trên tay và chỉnh lại chiếc mũ cao bồi của mình: “Còn lựa chọn nào khác nữa không? David à, anh em rất sẵn sàng ra tay cứu giúp lúc người khác gặp hoạn nạn, nhưng không muốn chết cóng vì lạnh đâu”.
David chà xát hai cánh tay bọc trong chiếc áo khác dày. “Cũng không trách anh được, quả thực thú vật cũng chẳng chịu được cái lạnh như thế này.”
“Vậy anh sẽ đến gõ cửa lần nữa và giải thích là Darby muốn anh đến đây bảo vệ cô ta. Nếu biết anh định ngủ ở đâu đó bên trong, cô ấy sẽ không đến nỗi quá hoảng khi nghe thấy anh vào nhà.” Joseph cười, nhìn cậu em đầy mỉa mai: “Em có muốn chuẩn bị trước một bài diễn văn để anh có thể diễn tả ‘nhẹ nhàng’ theo đúng ý em không?”.
“Nếu có giấy bút thì em cũng viết. Anh quá thẳng thắn, không bàn cãi gì luôn.”
“Ờ thì, kiểu nói văn vẻ hoa mỹ không phải sở trường của anh.” Joseph nheo mắt nhìn em mình, tiếp tục: “Nghĩ đi, có lẽ em ở lại sẽ tốt hơn anh, từ bé mồm miệng em lúc nào cũng dẻo như kẹo còn gì”.
David giơ hai tay lên cao: “Không, anh không thể làm thế được. Người Darby nhờ là anh chứ có phải em đâu, anh mới là người đưa ra lời hứa”.
Từ trước đến giờ Joseph chưa từng nuốt lời hứa với ai, mà hắn cũng chẳng có ý định phá vỡ quy tắc đó. Nhưng như thế cũng không có nghĩa là hắn không được phép thất hứa với người khác. Có rất nhiều thứ hay ho để làm vào một tối thứ Sáu như hôm nay, hơn là chơi trò bảo mẫu với một người phụ nữ không bình thường. David đã dắt con ngựa đến và leo lên lưng ngựa, Joseph định nhờ cậu em ghé qua Eden và mang cho hắn một chai whiskey trước khi về nhà nhưng lại thôi. Hắn biết tỏng nó sẽ nói gì. David giờ đeo một chiếc huy hiệu, nhìn nghiêm khắc hệt một nhà thuyết giáo về lạm dụng cồn rượu, hay bất cứ thứ gì tương tự làm Joseph thấy buồn cười.
“Chúc anh may mắn. Dù sao thì đây cũng sẽ là một đêm thú vị đấy!”
Thực ra là Joseph không còn lựa chọn nào khác, chứ đối với hắn việc phải ngủ trên nền đất lạnh lẽo với cái dạ dày chỉ có vài mẩu bánh quy và thịt bò khô chẳng thú vị chút nào.
David xoa xoa cằm rồi nói tiếp: “Em có dự cảm không tốt về chuyện này, ông anh ạ”.
Câu nói làm cả hai nhớ đến thời điểm họ phát hiện việc Darby bị bắn không phải tình cờ.
“Anh cũng thế.” Joseph thú nhận, “Nếu đó chỉ là một viên đạn lạc thì đơn giản”.
“Nhưng đó không phải đạn lạc”, David phản bác, “Chẳng có lý nào chuyện đó lại chỉ là tai nạn ngẫu nhiên”.
Lời nói đông cứng trong không khí lặng như băng. David bắt đầu nhìn chằm chằm vào ngôi nhà.
“Em rất ghét phải nói thế này, nhưng quả thực cô ấy đang gặp nguy hiểm.”
Joseph thì chán ghét cái ý nghĩ chuyện còn nghiêm trọng hơn em trai hắn nghĩ nhiều. Hắn chính là người đã hứa sẽ bảo vệ cô gái. “Thật không phải nếu anh đã quá thẳng thắn khiến cô ấy khiếp sợ”, hắn cất giọng hối lỗi.
“Em biết anh muốn hỏi cô ấy vài điều.” David kéo con ngựa quay đầu ra ngoài, sau đó ngồi yên trên lưng ngựa. “Có lẽ ngày mai cô ấy sẽ bình tĩnh hơn và sẽ chịu nghe anh nói chuyện.”
Joseph không chắc. Bóng tối thường chỉ làm con người ta điên thêm thôi. Nhưng hắn vẫn hy vọng: “Có thể”, rồi thấy em trai có vẻ miễn cưỡng không muốn đi, hắn hỏi dò: “Tiện thể, em thấy thế nào về vụ này?”.
“Em cũng không biết. Darby mê man đến mức chẳng thể nói rõ việc gì, cô Hollister lại không chịu nói chuyện. Em làm sao phán đoán được nếu không có bất kỳ manh mối nào?” David xoa xoa gáy. “Nếu đúng vụ bắn lén có liên quan đến kể giết người năm năm về trước thì sao? Lúc đó chúng ta còn chưa chuyển đến đây, mà cảnh sát trưởng năm đó là Estyn Beiler cũng không điều tra ra được hung thủ.”
“Estyn Beiler là tay sĩ quan nghèo kiết xác.” Nhắc đến cái tên, Joseph bĩu môi dè bỉu. “Ông ta chỉ mải mê với những vụ giao dịch mờ ám kiếm lợi cho chính mình, còn thời gian đâu mà phá án nữa. Em tận tụy, lại thông minh hơn đứt tay bịp bợm kia. Anh tin tưởng em sẽ làm đến nơi đến chốn vụ này.”
“Khi ngay cả một manh mối nhỏ cũng không có?” Joseph thò tay vào trong áo khoác lấy bao thuốc lá hiệu Crosscuts của hắn, trả lời: “Ừm, vậy tạm thời gác lại vụ thảm sát năm năm trước và tập trung vào nghi vấn hiện tại: Kẻ nào muốn Darby McClintoch phải chết?”.
“Em chẳng nghĩ ra ai. Thỉnh thoảng ông ta có vào thị trấn để uống vài cốc rượu, nhưng chưa từng gây gổ với ai. Lão cũng không chơi bài để người ta phải nghĩ lão ta thắng được tiền nên đắc tội với người khác. Và theo như em biết, Darby trước giờ chưa từng trêu ghẹo phụ nữ, bởi vậy loại bỏ luôn khả năng bị tình địch đánh ghen. Ông ta rất ít nói, không mếch lòng ai, không dính líu tới chính trị hay tôn giáo nên cũng chẳng thể là cái gai trong mắt người khác hay bị kỳ thị. Lần nào lão cũng chỉ ngồi ở một cái bàn tít trong góc, uống rượu sau đó về nhà.”
“Được rồi.” Joseph nói, đưa cho cậu em điếu thuốc. Một con bò lại rống lên than vãn. “Rất có thể kẻ bắn lén chẳng thù oán cá nhân gì với Darby.”
“Thế thì lại quay lại vụ án năm năm về trước với một dấu hỏi to đùng.” David nhận điếu thuốc, cúi người thấp xuống gần sát yên ngựa để Joseph mồi lửa. Khi thẳng người dậy, hắn nói: “Vụ này đau đầu thật, suy nghĩ cứ luẩn quẩn làm em chẳng biết nên bắt đầu từ đâu”.
Joseph rít một điếu khác cho đến khi nó bắt lửa, sau đó vẩy tắt que diêm Lucifer.
“Thử bắt đầu với những tin đồn rồi khái quát lên xem. Nhiều người cho rằng chính bà bác của Rachel, Amanda Hollister đã giết cả gia đình cô ấy. Họ nói bà và cháu trai của bà, Henry, cũng chính là cha của Rachel có mối bất hòa sâu sắc. Anh nghe nói nó có liên quan đến việc Henry được thừa hưởng toàn bộ trang trại trong khi bà ta lại không được một xu.”
“Em cũng nghe nói như thế”, David xác nhận.
“Nếu như Rachel cũng chết trong vụ đó, ai sẽ là người được hưởng lợi?”, Joseph hỏi.
Mắt David hấp háy vì cuộn khói thuốc lá, “Amanda Hollister. Bà ta là người thân duy nhất còn sống, nên theo lý mà nói thì bà ta sẽ được thừa hưởng tất cả, từ cái khóa cửa, gia súc, hầm rượu và tất cả tiền của Henry”.
“Vậy là đã xuất hiện một nghi phạm”, Joseph chạm nhẹ cho tàn thuốc lá rơi xuống. “Rõ ràng là bà ta có động cơ để ra tay. Tất cả các chứng cứ đều tố cáo bà ta, có lẽ vì thế mà suốt năm năm nay bà ta luôn tránh mặt.”
David suy nghĩ lúc lâu mới tiếp lời: “Bằng chứng quá rõ ràng. Trong khoảng thời gian ngắn làm cảnh sát trưởng, em học được một điều là những câu trả lời quá hiển nhiên thường sẽ không phải sự thật”.
“Em nói đúng. Bà ta có điên mới dám làm chuyện đó và nghĩ là mình sẽ thoát tội. Có điều anh nghi ngờ nhà Hollister có truyền thống điên rồ từ trước.” Joseph móc ngón tay cái hướng về phía ngôi nhà. “Người ta nói sở dĩ Rachel Hollister trở nên điên điên khùng khùng như vậy là do cô ta bị bắn vào đầu, nhưng ai biết được nếu như trước đó cô ta đã không bình thường sẵn.”
“Có thể.” David nhả khói và búng rơi tàn thuốc. “Kiểu như nhà O’Shannessy có gen tóc đỏ?”
“Ừ, nhưng đó có thể là sự điên rồ riêng với nhà Hollister.” Joseph chăm chú quan sát đầu mẩu rực đỏ của điếu thuốc trên tay hắn.
“Cũng có thể chúng ta phán đoán nhầm hướng. Ai cũng biết Jebediah Pritchard không ưa Henry Hollister.”
“Lão ta cũng ở ngay phía bắc trang trại, đúng không?”
Joseph gật đầu, “Người ta đồn rằng gã đã lâm vào tình cảnh khó khăn cả chục năm nay rồi. Hình như là vì trận lũ năm 79 đã làm thay đổi dòng chảy của nhánh sông Wolverine, trang trại của gã ở quá cao nên không có nguồn nước để sinh hoạt”.
“Em nhớ rồi. Trước kia ranh giới của Bar H và trang trại của Jeb bao gồm cả con lạch với một cụm đá. Năm đó lũ lụt, dòng chảy của nhánh sông thay đổi nhưng cụm đá vẫn giữ nguyên. Jeb muốn Henry Hollister điều chỉnh lại ranh giới hai trang trại theo hướng chảy của nhánh sông, nhưng Henry từ chối, vì nếu thế ông ta sẽ mất vài mẫu đất chăn thả gia súc trọng yếu.”
Joseph mím môi, “Nếu anh nhớ không nhầm thì vài tháng sau, nhà Pritchard đã cho nổ con lạch để cố hướng dòng chảy về trang trại của mình. Rõ ràng là ông ta chẳng biết mình đang làm gì và cuối cùng cũng chỉ để lại một hố to giữa dòng nước mà thôi”.
“Cảnh sát trưởng Beiler chưa bao giờ khẳng định đó là do Pritchard làm”, David nhận xét.
“Còn ai quan tâm đến chuyện nhánh sông đó chảy về đâu ngoài hắn ta chứ? Anh cá là do Jeb làm.”
Jebediah Pritchard là một gã keo kiệt chẳng mấy thân thiện, tính tình thì vô lý, mà độ hèn hạ và mùi hôi thối thì không ai bằng. Ba đứa con trai đã trưởng thành Hayden, Cyrus và Alan cũng giống hệt như hắn. Lúc phải gặp người nhà Pritchard trong thị trấn, Joseph luôn phải đề phòng, gió chiều nào xoay chiều nấy để tránh phiền phức.
David nói thêm: “Em nghĩ Henry Hollister đã đưa được nước từ con lạch vào một cái ao lớn trong trang trại nhà Pritchard, làm như thế cũng công bằng”.
“Quá công bằng. Nhưng nếu như Henry qua đời và con cháu ông ta không được hào phóng như thế? Nhà Pritchard lúc đó sẽ chỉ còn cái giếng con để duy trì đàn gia súc và mùa màng. Có lẽ hắn quyết định giải quyết cả nhà Hollister để dễ dàng thỏa thuận mua bán với bà bác già bên đó. Bà Hollister sẽ mua một mảnh đất khác nhỏ hơn ở bên kia thị trấn và sẽ nhanh phất lên. Đến lúc đó, hẳn bà ta sẽ vui vẻ nhận tiền cũng như trút được trách nhiệm một mình gánh vác cả trang trại.”
Kích động vì khả năng này có thể xảy ra, David bổ sung: “Chỉ vì viên đạn sượt qua đầu Rachel Hollister nên hắn ta đã không đạt được mục đích”.
“Chính xác. Hơn nữa, sau khi tỉnh lại, cô ta lại điên điên khùng khùng và chẳng bao giờ bước chân ra khỏi nhà nữa. Pritchard chẳng còn cơ hội để giết cô ta. Anh còn nghe nói hắn đã cố mua lại trang trại này nhiều lần, nhưng Darby chưa bao giờ chịu thỏa hiệp, vì lão biết Rachel sẽ không đồng ý. Trong trường hợp đó, Pritchard sẽ làm gì? Hắn phải giải quyết nốt đống dang dở đó, trừ khử Rachel. Nhưng hắn sẽ không tiếp cận được cô ta nếu không loại bỏ Darby trước.”
“Anh đã bao giờ có ý định trở thành sĩ quan hay cảnh sát chưa? Suy nghĩ của anh giống hệt bọn tội phạm”, David cười toe toét.
“Không, cảm ơn”, Joseph bật cười, hơi cúi đầu xuống, rồi nghiền nát đầu thuốc lá dưới chân. “Anh ở trang trại vẫn tốt lắm.”
“Thế anh còn nghi ngờ ai khác không?”
Joseph cân nhắc câu hỏi rồi trả lời: “Anh nghĩ chủ nhân của tất cả những trang trại gần Hollister đều khả nghi, cả những người làm thuê của họ nữa. Vì đây là vùng kinh doanh trang trại lớn, nếu không có Darby, cô Rachel sớm muộn cũng sẽ buộc phải bán gia sản đi và dĩ nhiên sẽ có người mua lại mảnh đất này”.
“Thế ra là anh tự mình buộc tội mình hả, anh trai?” Joseph lại cười. “Cái đó cũng đúng. Hạn chế của việc phân tích bao quát là thế đấy, có thể tất cả sẽ trở thành kẻ bị tình nghi. Chẳng hạn như Garrett Buckmaster, mặc dù trang trại của hắn nằm ở bên kia đường và hơi chếch về phía bắc, nhưng anh biết, năm ngoái hắn đã mấy lần ngỏ ý mua lại nơi này. Hắn ta cố ra vẻ đàng hoàng nhưng kỳ thực trang trại của hắn cũng đang thiếu nước. Phải để ý thật kỹ mới biết được bản chất của hắn.”
David tắt điếu thuốc rồi nhét mẩu thuốc lá vào túi. “Ngày mai có lẽ em sẽ hơi bận.”
“Đi gặp mấy người đó hả? Có phiền không nếu anh đi cùng? Xem em trai mình hỏi cung như thế nào.” “Ai sẽ trông chừng cô Hollister?”
“Gọi anh Ace đến thay một lúc cũng được.”
David nhún vai: “Em cũng chưa nôn nóng đến mức muốn đi gặp Jeb với mấy thằng con lão một mình. Bố con nhà đó toàn lũ xảo quyệt”.
“Vậy quyết định thế đi, mai anh sẽ đi cùng em.”
David kéo chiếc mũ cao bồi xuống quá mắt, thúc con ngựa lên đường, rồi mới ngoái đầu tạm biệt anh trai: “Vậy ngày mai gặp”.
Joeph nhìn cậu em cưỡi ngựa đi, miệng khẽ huýt sáo, hắn tiến về phía căn nhà nghỉ dành cho người làm, hy vọng sẽ tìm được một ngọn đèn để chiếu sáng. Đêm nay hắn sẽ phải thay Darby hoàn tất mọi việc, trước tiên là vắt sữa mấy con bò đang rống lên thiếu kiên nhẫn kia. Nếu có đèn hắn sẽ dễ dàng đi lại hơn trong nhà kho và sân nuôi gà vịt không mấy quen thuộc với mình.
Khi vừa giật tấm ván bịt ô cửa mà hắn đoán là cửa sổ phòng ngủ đằng trước nhà Hollister, Joseph thấy cái gì đó thúc vào chân mình. Hắn nhìn xuống, là Buddy.
“Thế quái nào mày lại ở đây hả? Tao đã bảo mày phải ở yên trong nhà cơ mà?”
Con chó ríu rít vẫy đuôi, tỏ ý vui mừng khi lại được ở cùng chủ của mình. Joseph muốn mắng cũng chẳng được, khi chính hắn cũng thấy nhẹ nhõm vì có bạn đồng hành. “Được rồi”, hắn thô lỗ nói, “Lần này cho qua, nhưng lần sau tao nói ở lại là phải ở lại đấy nhé”.
Buddy há miệng phát ra vài tiếng gầm gừ phản đối. “Đừng càu nhàu với tao”, Joseph nói, “Mày là chủ hay tao là chủ hả?”.
Khỉ thật. Cửa sổ bị khóa chặt từ bên trong, Joseph cố hết sức đẩy phần kính trượt phía dưới nhưng vẫn chẳng ăn thua gì. Chống tay vào bệ cửa sổ xù xì bong tróc sơn để nghỉ một lúc, hắn cân nhắc các lựa chọn tiếp theo. Có lẽ hắn sẽ phải phá vỡ cửa kính mới vào trong được và so với việc ở ngoài trong thời tiết lạnh cắt da cắt thịt như thế này thì cũng đáng. Joseph tự nhủ, chờ đến khi Darby khỏe lại hắn cũng đã sửa xong ô cửa, chẳng vấn đề gì.
Quyết định, hắn gập khuỷu tay lấy đà, rồi đập vào mặt kính. Nhờ có tay áo khoác da dày mà hắn không bị các mảnh vỡ nhọn đâm vào, cửa kính bị phá bỏ sau vài cú huých. “Đi ra”, hắn ra lệnh cho con chó. Khi Buddy đã lùi ra chỗ an toàn, Joseph nhẹ nhàng gỡ bỏ những mảnh kính còn sót lại trên gờ cửa sổ, sau đó gạt sạch nền đất bằng đế giày, dồn các mảnh kính vỡ sang một bên. Hắn nói với con chó: “Tao không mong mày bị kính cắt vào chân đâu”.
Khi hắn dò dẫm mở chốt cửa thì phát hiện ra bên trong cửa sổ cũng bị bịt kín bằng ván gỗ. Điên rồ! Một lớp ván dày như thế ở bên ngoài còn chưa đủ an toàn với người đàn bà điên này sao? Đứng trên nền đất bên ngoài, Joseph không tài nào chỉ dùng vai mà làm bong được tấm ván gỗ, cũng may là hắn luôn mang theo vài thứ dụng cụ để trong chiếc túi bên yên ngựa.
Một lúc sau, Joseph quay lại, bắt đầu dùng xà beng bẩy các đầu được cố định của các tấm ván để có thể dễ dàng gỡ chúng ra. Hắn nhăn mặt mỗi khi một tấm gỗ nặng nề nện xuống nền phòng, nhưng cũng không còn cách nào khác. Hắn đã báo trước với Rachel Hollister là mình sẽ vào trong nhà, cầu mong cô ấy sẽ không quá hoảng khi nghe thấy những tiếng động lạ.
Khi cửa sổ đã thông thoáng, Joseph lấy đèn măng sông, cầm túi ngủ và túi yên lúc nãy vứt trên mặt đất. Sau khi quẳng hết đồ vào phòng, hắn quay qua con chó.
“Lại đây nào, anh bạn. Đến lúc thoát khỏi cái thời tiết chết tiệt này rồi.”
Buddy gầm gừ nhè nhẹ lấy lòng chủ, Joseph ôm con chó ngốc nghếch ném vào trong. Buddy nhanh nhẹn tiếp đất và bắt đầu nhạy loăng quăng khắp căn phòng, móng chân nó nện xuống sàn nhà kêu lóc cóc.
Chống một tay trên bệ cửa, Joseph đu người lên, quắp một chân vào lề cửa rồi nhẹ nhàng lọt vào trong phòng. Một mùi ẩm mốc cũ kỹ xộc vào mũi hắn. Sau khi nhặt lại đồ đạc, Joseph quẹt diêm thắp sáng cây đèn. Ánh sáng vàng dịu bao phủ căn phòng như thể chủ nhân ở đây chỉ vừa ra ngoài vào buổi sáng. Trong phòng, phía chân giường vắt một chiếc váy ngủ phụ nữ màu trắng, ga giường và chiếc gối xù có viền xanh da trời dịu dàng tiệp màu với vô số bông hoa trang trí nhỏ li ti trên bề mặt vải. Cánh cửa tủ hé mở, trong có một bộ comple nam và vài chiếc áo sơ mi trắng, còn lại toàn là quần áo phụ nữ.
Nhìn kỹ, Joseph thấy mọi thứ trong phòng đều phủ một lớp bụi dày. Hắn đoán đây chắc hẳn là phòng ngủ của Henry và Marie Hollister, còn mình chẳng khác gì kẻ xâm nhập trái phép. Một cuốn Kinh Thánh vẫn để mở trên bàn, phía góc trang còn vắt một dây ruy băng mỏng màu đỏ. Nghĩ đến kết cục bi thảm của gia đình này, Joseph có thể hình dung ông bà Hollister thức dậy vào buổi sáng hôm đó, vui vẻ chuẩn bị cho buổi picnic mà không hề hay biết đó sẽ là ngày cuối cùng trong cuộc đời mình.
“Lại đây nào”, hắn gọi Buddy. “Tao thấy sốt ruột quá.” Joseph càng bồn chồn lo lắng hơn khi hắn bước ra ngoài, đi trên dãy hành lang dài. Một chiếc bàn phòng khách dựa vào cuối bức tường, bên trên đặt một một bình hoa chỉ còn trơ lại những cuống hoa vàng úa đang phân hủy. Những mảng lá và cánh hoa rơi đầy xuống tấm vải lót trên mặt bàn cho thấy chúng từng là những bông iris1 rực rỡ. Joseph rùng mình khi nghĩ chính tay Marie Hollister đã cắt từng bông hoa, sau đó cắm vào bình ngay trong ngày tử nạn.
1 Hoa Iris: hay còn gọi là hoa Diên Vĩ, trồng nhiều ở những vùng có khí hậu ôn hòa.
Giơ cao đèn măng sông, Joseph tiếp tục đi dọc hành lang. Hắn đã nghĩ đến việc hô to để thông báo sự hiện diện của mình, để tránh cho cô Hollister khỏi hốt hoảng vì tiếng kính vỡ và ván gỗ rơi xuống sàn lúc trước. Nhưng hắn còn nói được gì nữa? Trước khi vào nhà, hắn đã gõ cửa ba lần, một lần để giới thiệu bản thân và cho cô biết tình trạng của Darby, lần nữa báo tin hắn đã hoàn tất các việc cần làm trong trang trại, rằng củi đã chất đầy trong hộp và về hai xô sữa trước hiên nhà, còn lần cuối để thông báo hắn sẽ vào nhà bằng cửa sổ đằng trước. Và mặc dù chẳng thấy cô gái trả lời, hắn vẫn cứ giải thích lý do hắn ở đây, về việc Darby nhờ hắn đến bảo vệ cô. Điều cần nói cũng đã nói, cô vẫn không bình tĩnh lại thì nói gì nữa cũng vô dụng.
Hắn dừng lại trước một căn phòng nhìn có vẻ như đã từng là phòng may. Mặc dù không thấy máy may nhưng có một chiếc váy chưa hoàn thiện trải trên mặt bàn. Trong chiếc tủ đang mở là một con ma-nơ-canh, cùng với mớ dây đăng- ten và đồ trang trí móc đầy trên giá treo bằng gỗ.
Đi lên chút nữa, hắn tìm thấy phòng đọc sách. Những mảng sáng hình chữ nhật trên các tấm ván gỗ thông cho thấy nhiều kệ sách đã được gỡ đi. Tất cả những gì còn lại chỉ là những cuốn sách hướng dẫn chăn nuôi và làm nông nghiệp. Bình thường Joseph hẳn sẽ bị cuốn hút với những quyển sách thể loại này, nhưng tối nay hắn cứ thấy bồn chồn không dứt, ám ảnh bởi ý nghĩ người chết vẫn còn lởn vởn quanh đây.
Thật ra sâu trong lòng Joseph vẫn tin trên đời này có ma quỷ. Hắn chưa từng nói với ai về điều này, nhưng trước giờ hắn vẫn nghĩ như thế. Theo hắn, một người không thể tin vào Chúa và thế giới bên kia nếu như không thừa nhận sự tồn tại của các linh hồn. Và mặc dù chưa bao giờ gặp ma, hắn vẫn thầm cảm ơn Chúa vì điều đó, nhưng cái cảm giác ớn lạnh như lúc này đây hắn cũng đã trải qua vài lần.
Vội vã đi đến cuối hành lang, hắn giật bắn người khi con chó Buddy đột nhiên cất tiếng gầm gừ. Hắn tự nhủ Buddy vẫn luôn luôn gầm gừ như thế để trấn tĩnh, nhưng không phải, lần này là một tiếng gầm gừ đầy cảnh báo. Phía bên phải hắn hình như là một phòng khách lớn. Hắn giơ cao đèn, trong phòng có vài thứ đồ đạc bị thiếu, nhìn cứ có cảm giác ai đó đã rời đi và mang theo chiếc sô pha, ít nhất một cái ghế đơn và vài cái bàn.
Joseph tiếp tục đi, vai hắn chạm vào một bên tường làm nghiêng một khung ảnh. Tiếng sột soạt làm hắn nhảy dựng lên. Hắn bước đến chỉnh nó lại cho ngay ngắn, ánh đèn chiếu đến làm rõ bức hình được đóng khung. Một khuôn mặt xinh đẹp nhìn chằm chằm vào hắn. Cô gái mặc một bộ tối màu từ đầu xuống chân, mái tóc xoăn sáng màu như mây phủ lấy bờ vai nhỏ nhắn, nhìn cô mới khoảng mười tuổi. Cô nghiêm nghị ngồi trên một chiếc gối, hai nắm tay đặt thoải mái lên đùi. Trên khuôn mặt thanh tú tinh tế là đôi mắt to đầy biểu cảm mà Joseph cho là màu xanh da trời, đôi mắt sáng lên phản chiếu sắc óng của mái tóc. Là Rachel Hollister chăng? Cô con gái nhỏ hơn lúc đó còn chưa được sáu tuổi.
Đèn vẫn giơ cao trên đầu, Joseph bước qua cổng vòm đi về bên trái, cuối cùng hắn cũng tìm được phòng ăn mà Darby nói thông với nhà bếp nơi Rachel đang ở. Ô cửa sổ từng nhìn thẳng ra một bên sân đã bị bịt kín từ bên trong bằng ván gỗ, rèm cửa phủ trên đó cũng đã xỉn màu vì thời gian. Một chiếc tủ gỗ duyên dáng theo phong cách Louis XV được đặt cạnh tường, hoa văn dây nho tinh tế uốn lượn trên những cánh cửa làm Joseph nhớ đến những thứ đồ nội thất hồi bé hắn nhìn thấy ở San Francisco. Vài chiếc ghế cao màu đen xếp xung quanh một chiếc bàn đá cẩm thạch đặt ở giữa phòng, mặt bàn mờ đi vì lớp bụi bẩn. Giữa bàn ăn là giá nến bằng bạc được trang trí công phu bám đầy mạng nhện, những cây nến trước kia màu trắng giờ cũng nghiêng ngả đủ các hướng.
Buddy lăng xăng chạy trước Joseph, để lại vô số dấu chân trên tấm thảm màu rượu vang bám đầy bụi có trang trí hoa văn dương xỉ trải dài đến vách tường. Hiển nhiên, nhà Hollister trước kia chưa bao giờ phải sống trong cảnh nghèo khổ và ngôi nhà đầy những mảng sơn tường bong tróc, chịu đựng đủ sự tàn phá của các loại thời tiết bây giờ cũng đã từng là một gia thự rộng lớn đẹp đẽ.
Joseph nâng ngọn đèn lên cao hơn. Giữa bức tường phía bắc có một cánh cổng vòm bịt kín, hắn đoán chắc Rachel Hollister đang ở ngay phía bên kia cánh cổng. Sau khi đặt ngọn đèn lên bàn, hắn ném đồ đạc trên mặt đất. Chẳng còn cách nào khác, đêm nay hắn phải ngủ ở đây, một mình, với âm hồn người chết lởn vởn bên cạnh.
Ý nghĩ kinh khủng vừa lướt qua đầu thì hắn nghe thấy một tràng tiếng nổ lớn, cùng lúc đó, các mảnh ván gỗ bay tán loạn trong không khí.
Buddy sợ hãi kêu lên ăng ẳng. Joseph nằm rạp xuống sàn nhà. Khi không khí bụi mù lắng xuống, hắn chui người xuống gầm bàn, rút khẩu Colt.45 ra phòng vệ, hai chiếc ghế lật ngang tạm thời làm tấm bình phong cho hắn.
Chết tiệt thật. Hắn cố nén phẫn nộ vì đã rút súng sau khi nhận ra lúc nãy người phụ nữ đó đã bắn mình, Joseph nhét lại khẩu súng vào bao da rồi nhặt chiếc mũ cao bồi rơi trên sàn nhà. Đội mũ lại lên đầu, hắn thận trọng xoay người để quan sát tình hình xung quanh. May mà mục tiêu lúc nãy là cái mũ chứ không phải đầu mình, hắn thầm nhủ, nhưng ngay sau đó, hắn liền thay đổi suy nghĩ khi nhìn thấy cái lỗ hình răng cưa to tướng ngay giữa cánh cổng tò vò bịt kín.
Cái lỗ to như một quả bí ngô Texas khổng lồ, đường kính rộng phải hơn hai feet2, mép dưới cách mặt sàn khoảng hơn ba feet. Hẳn là người phụ nữ đó đã tỳ súng vào hông để bắn thay vì vai và chỉ có một khẩu súng săn mới có sức công phá mạnh đến thế. Chỉ cần một viên đạn bay đến gần chỗ hắn thôi cũng đủ để phá tan cái bàn, hai cái ghế, mũ và cả cái đầu hắn.
2 Feet là đơn vị đo lường chiều dài của Anh-Mỹ. Một feet tương ứng với 30.48 cm.
Ánh đèn len lỏi chiếu qua cái lỗ trên cánh cổng thắp sáng thêm phòng ăn vốn đã được chiếu sáng mờ mờ. Nhưng Joseph không dám coi đó là sự may mắn, vì phía bên kia cánh cửa là một người đàn bà điên với một khẩu súng săn, vậy nên lúc này bóng tối dày đặc mới an toàn với hắn. Đánh giá độ lớn của lỗ hổng trên cửa, hắn đoán người phụ nữ đó đã xả hết đạn trong nòng. Từ sau lúc đó, hắn cũng không nghe thấy tiếng lạo xạo hay tiếng thép va vào nhau cho thấy cô ta nạp thêm đạn. Hắn thấy nhẹ nhõm hơn hẳn.
Hắn lại nghĩ hay là hô to cho cô biết hắn đang ở đây. Nhưng cuối cùng hắn quyết định im lặng. Nếu những lời giải thích trước đó của hắn mà cô ta nghe còn không lọt tai thì hiện giờ có nói cũng chẳng cải thiện được tình hình. Người phụ nữ này không phải đang đùa. Cô ta định giết hắn thật.