ĐỨC ANH
Trong thời chiến, những con người ấy dành hết tuổi thanh xuân của mình để gìn giữ, bảo vệ từng tấc đất, đường biên. Hòa bình lập lại, họ tiếp tục trông coi những cánh rừng bạt ngàn xanh mướt, cũng là nơi đồng đội họ đã ngã xuống trong chiến tranh. Đó là những cựu binh tại rừng B.58 - một căn cứ quân sự thuộc Chiến khu Đ trước đây tại tỉnh Bình Phước.
Rừng che bộ đội…
“Chúng tôi, ai cũng nằm lòng câu “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Khu rừng có biết bao máu đồng đội, hài cốt họ còn nằm nơi đây, nếu không bảo vệ được rừng là có tội với người ngã xuống, với các thế hệ mai sau...” - Nữ cựu binh Nguyễn Thị Hồng Tươi nói.
Từ Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi dọc theo quốc lộ 13 đến thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Từ đây, xuôi theo đường tỉnh 753 chừng 30 cây số, xuyên giữa những vườn cao su, vạt điều xanh ngút tầm mắt, là đến khu rừng Mã Đà.
Theo chỉ dẫn, chúng tôi dọc con đường nhỏ dẫn vào cánh rừng. Anh bạn đồng nghiệp phải dừng xe hạ kính mũ bảo hiểm và khoác thêm áo choàng để chống từng đàn muỗi dày đặc. Vượt chừng 2 cây số thì gặp chốt bảo vệ rừng. Sau tấm biển Công ty B.58 kia là cánh rừng nguyên sinh mà chúng tôi đang tìm.
Đón chúng tôi là một phụ nữ đã lớn tuổi với nụ cười đôn hậu. Bà là Nguyễn Thị Hồng Tươi, cựu chiến binh, Phó Giám đốc Công ty B.58. Vừa rót nước mời khách, bà vừa nói: “Nước được lấy từ suối, hãm với nấm quý của rừng nguyên sinh nên rất sạch, có tác dụng giải độc gan đấy” - Bà Tươi đon đả.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Chiến khu Đ giữ một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng của toàn bộ chiến trường miền Nam. Hiện tại, nơi đây vẫn còn dấu tích của các khu bệnh viện dã chiến, hầm và hào giao thông bí mật của bộ đội giải phóng.
Bà Tươi bắt đầu câu chuyện về khu rừng nguyên sinh này. Rừng B.58 là tên gọi mới, trước rừng có tên là rừng Mã Đà. Khu rừng thuộc Tiểu khu 379, những năm chiến tranh, đây là căn cứ cách mạng, trụ sở của Bộ Tư lệnh miền Đông Nam Bộ, thuộc Chiến khu Đ. Với địa thế hiểm trở bởi vậy Khu ủy đã quyết định xây dựng căn cứ, cất giấu quân lương tại khu rừng này.
Với địa thế lưng dựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, phía trước là khu vực đồng bằng đông dân cư và khu đô thị lớn, Chiến khu Đ trở thành vị trí án ngữ chiến lược, cầu nối liên kết với các chiến trường. “Trong kháng chiến, đây là một địa điểm quan trọng để liên lạc, tiếp nối, tích trữ, dừng chân từ hậu phương miền Bắc vào tiền tuyến miền Nam” - Bà Tươi cho biết.
Đấy là câu chuyện của những năm kháng chiến. Khi non sông thu về một mối, chiến tranh lùi xa, những cựu binh ấy bắt tay ngay vào cuộc chiến mới: Cuộc chiến bảo vệ và giữ rừng. “Bắt đầu mọi việc chỉ với ý tưởng nhỏ thôi, muốn giữ rừng, bảo tồn di sản còn sót lại sau chiến tranh để con cháu mình biết đến như một minh chứng lịch sử thôi” - Bà Tươi chia sẻ.
Cựu chiến binh Đoàn Thanh Hoa - nguyên Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Tân Hưng, huyện Đồng Phú, hiện là thành viên bảo vệ khu rừng này cho biết, ông nhập ngũ năm 1964, chiến đấu và từng giữ chức vụ Chính trị viên đại đội.
“Khi nghỉ hưu, tôi thấy, việc bảo vệ chăm sóc rừng cũng là một trong những công việc cần làm nên quyết định tham gia làm thành viên bảo vệ rừng. Vừa vui với bạn bè vừa níu giữ những mảnh rừng đang như miếng mồi ngon của lâm tặc. Cũng là nghĩa cử tri ân với những đồng chí, đồng đội của chúng tôi đã chiến đấu, hy sinh còn nằm đâu đó trong khu rừng này” - Ông Hoa tâm sự.
Giữ màu xanh để lập địa chỉ đỏ
Bắt tay vào công việc mới thấy hết những khó khăn vất vả của những cựu binh bảo vệ và phát triển rừng. Năm 2008, nạn phá rừng, lấn chiếm trái phép diễn ra nghiêm trọng tại các khu vực được giao khoán. Nhận thấy tình hình rừng ngày càng bị lâm tặc xâm hại, Trưởng ban liên lạc Truyền thống Khối tình báo B.58 Đặng Thắng đã giao cho bà Nguyễn Thị Hồng Tươi (lúc đó, nữ cựu chiến binh này đang giữ chức Trưởng Văn phòng đại diện Khối tình báo B.58 tại Bình Phước) chịu trách nhiệm giám sát, trực tiếp công tác quản lý bảo vệ rừng và đất rừng. “Với trọng trách này, chúng tôi phải chịu trách nhiệm về nguồn vốn, tổ chức điều hành bảo vệ thực hiện triển khai các dự án. Đặc biệt, phải có kế hoạch cho lực lượng bảo vệ, kiểm tra, đẩy lùi nạn phá và vận chuyển lâm sản trái phép ra khỏi rừng” - Bà Tươi nhớ lại những ngày đầu nhận nhiệm vụ.
Nói về những ngày đầu được giao giữ rừng Mã Đà, bà Tươi cho biết: “Chúng tôi từng tham gia kháng chiến, ai cũng thuộc nằm lòng câu “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Khu rừng có biết bao máu của đồng đội, hài cốt họ còn nằm ở đây, nếu không bảo vệ được rừng là có tội với họ, có lỗi với lịch sử, với các thế hệ sau”.
Khó khăn, thử thách trong khoanh nuôi, quản lý rừng bằng nguồn tài chính của mình chỉ là một phần nhỏ, giữ rừng khỏi rơi vào tay lâm tặc khó hơn nhiều.
Việc giữ rừng thoát khỏi những tranh đoạt quyền quản lý để “xẻ thịt” rừng Chiến khu Đ quả là công việc vô cùng gian nan.
Những tán rừng xum xuê, những thân cây cổ thụ tỏa bóng, bên gốc cây kơ nia với đường kính cả chục người ôm, chúng tôi được ông Đoàn Thanh Hoa dẫn vào vùng lõi của khu rừng. Ở đó có bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các anh hùng liệt sĩ. Địa chỉ đỏ đã hình thành trong cánh rừng xanh…
Máu vẫn đổ giữa thời bình
Chỉ vỏn vẹn hơn 30 công nhân, bao gồm cả những cựu chiến binh già và thanh niên trẻ phân chia nhau vừa bảo tồn vừa phát triển 512 héc-ta rừng nguyên sinh Mã Ðã trước những kẻ “ăn của rừng”. Không ít lần những con người ấy bị lâm tặc tấn công, nhưng với tinh thần được tôi luyện từ những cuộc chiến, họ vẫn giữ vững cho Chiến khu Đ tốt tươi, nguyên vẹn...
Cùng dẫn chúng tôi thăm thú cánh rừng nguyên sinh B.58 hôm ấy là anh Phan Văn Trí. Vừa đi, anh Trí vừa dặn: “Các anh đi theo bước chân tôi, chỉ đi chệch đường sẽ rất nguy hiểm bởi có rất nhiều hố sâu, hầm ngầm”. Rồi với thân thủ nhanh nhẹn, thoăn thoắt, quen thuộc, anh vạch lối mòn “dợm” bước.
Anh Trí sinh ra và lớn lên ở Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Năm 2008, sau khi xây dựng gia đình, anh theo bạn bè vào Nam lập nghiệp. Duyên số dun dủi thế nào lại đưa anh về với những cánh rừng bạt ngàn cây cối như quê anh một thủa. “Tình cờ, tôi gặp những người cựu chiến binh đang bảo vệ rừng. Nghe chuyện ăn ở rừng, ngủ ở rừng tôi quyết định bỏ mọi công việc để theo bước chân các cô, các chú” - Anh Trí tâm sự. Năm 2014, anh đưa cả vợ con vào sinh sống và tiếp tục với công việc giữ rừng cùng đơn vị.
Càng dợm bước vào sâu, chúng tôi càng lạc vào những thảm thực vật nguyên sinh đến khó tin. Cứ một đoạn ngắn lại bắt gặp những thân cây lớn bằng vài người ôm. Đây là cây bằng lăng, kia là gõ mật, kơ nia, sồi, huỳnh đường, da, trường mật... Phía dưới là những thảm thực vật nguyên sơ tựa như chưa được con người khám phá.
Trong thời chiến, những con người ấy dành hết tuổi thanh xuân của mình để gìn giữ, bảo vệ từng tấc đất, đường biên. Hòa bình lập lại, họ tiếp tục trông coi những cánh rừng bạt ngàn xanh mướt, cũng là nơi đồng đội họ đã ngã xuống trong chiến tranh. Đó là những cựu binh tại rừng B.58 - một căn cứ quân sự thuộc Chiến khu Đ trước đây tại tỉnh Bình Phước.
Vừa xua những bầy muỗi ngửi thấy hơi người bám lại, anh Trí vừa tự hào vừa nói: “Kia là cây bằng lăng cao khoảng 35 - 37 mét, đường kính 3 - 4 mét, phía tay trái là cây kơ nia cao 50 mét, đường kính 8 mét... Những cây to như thế đếm cả ngày không hết. Từ những năm đầu tôi làm việc ở đây, những cây này đã to lớn như vậy rồi”.
Vừa dang tay ôm một cây bằng lăng để ướm thử chu vi của gốc, anh Trí vừa giới thiệu, đây là một trong hàng trăm cây bằng lăng ở khu rừng này, nó có tuổi thọ hàng trăm năm tuổi. “Cả rừng có 54 cây được Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam công nhận là cây di sản năm 2014 đấy” - Anh Trí nói.
Sâu vào lõi rừng, bên cạnh những thảm thực vật nguyên sinh, chúng tôi càng cảm nhận được sự linh thiêng khi rừng mang trong mình những dấu tích của những năm tháng chiến tranh. Dưới những tán lá xanh, xen lẫn với chằng chịt những cây gai là dấu tích của những bệnh viện, căn hầm, trận địa… Càng vào sâu trong rừng, những lối mòn nhỏ dần biến mất nên ai ai cũng phải tự túc, người dùng rựa, người dùng dao hoặc gậy để tự bạt đường mà đi.
Đi chừng hơn một tiếng, thấy chúng tôi mồ hôi đẫm áo, anh Trí khích lệ: “Mỗi ngày, tôi đi hàng chục cây số xuyên rừng. Có khi đi từ sáng sớm đến chiều tối, khi thì từ nửa đêm tới sáng sớm, không có giờ giấc cụ thể nào. Trước khi đi ăn thật no, đi mấy ngày, khi đói, khát đã có cây rừng” - Anh Trí nói và cho biết thêm, sở dĩ không đi theo giờ giấc cố định như vậy để lâm tặc không thể căn ngày giờ để phá rừng.
Ðể vang mãi khúc ca đại ngàn
Trong đoàn đi rừng cùng chúng tôi hôm ấy có cựu binh Nguyễn Công Trường - nguyên Bí thư Đảng ủy xã Đồng Tâm, một trong những chứng nhân cho những thăng trầm, biến cố của việc giữ rừng. Ông Nguyễn Công Trường kể: “Trước kia, lâm tặc vào rừng chặt phá, săn thú. Khi bị chúng tôi phát hiện, chúng chống trả quyết liệt. Có lần, vì không cho chúng chặt hạ cây, chúng đã dùng súng, dùng dao đe dọa. Nhiều anh em đã phải đổ máu mới giữ được rừng như bây giờ”.
Không chỉ vượt qua khó khăn, nguy hiểm, những người cựu binh còn phải vượt qua cả cám dỗ của đồng tiền. Có lần khi đi tuần, phát hiện một số gốc cây bị cạo sạch vỏ, biết là lâm tặc đánh dấu, nên nhóm của ông Trường động viên nhau mắc võng ngay tại gốc cây để bảo vệ. Không chặt được cây, chúng quay ra mua chuộc, đe dọa, hay thậm chí đốt các lán trại để làm nhụt ý chí của những người bảo vệ rừng. Tuy nhiên, mọi cám dỗ đời thường không làm lay động được ý chí của những con người quả cảm nơi đây. “Thấy chúng tôi làm căng, cánh lâm tặc cũng phải chùn bước. Quyết tâm và ý chí ấy nên rừng vẫn giữ được đến bây giờ” - Ông Trường nói giọng chắc nịch.
Xuyên rừng được chừng hơn 3 cây số, bỗng ông Trường với những bước chân thoăn thoắt bước xuống một lối đi rất thấp. Và đây là những chứng tích của một thời kháng chiến năm nào. Những ngóc ngách còn sót lại của một bệnh viện dã chiến được đặt tại đây. Vừa chỉ tay, ông Trường vừa giới thiệu: “Đây là hầm bệnh xá của Bệnh viện K72 tiền thân là trạm xá của Cục II miền Đông Nam Bộ từ những năm 1962 - 1975. Sau này, khi hòa bình lập lại, đất nước đi lên, chính vị Giám đốc Bệnh viện Đại tá, bác sĩ Nguyễn Chí Lợi - Thường trực Ban liên lạc Quân y viện K2 thời bấy giờ đã về dựng lại những thước phim tài liệu thời kháng chiến tại đây” - Ông Trường cho hay.
Cựu chiến binh Đàm Quang Dần - nguyên là Trưởng Công an, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã Tân Hưng (Đồng Phú), là thành viên của Công ty B.58, cho biết, để khu rừng được bảo vệ an toàn, lãnh đạo Công ty B.58 thành lập 5 chốt với 30 bảo vệ, hầu hết là những cựu chiến binh, con em gia đình có công với cách mạng, thay nhau gác rừng cả ngày lẫn đêm. Công ty cũng ký hợp đồng phối hợp tuần tra với huyện đội Đồng Phú tại các điểm xung yếu.
“Ngoài những chốt giữ rừng, công ty còn xây dựng được mạng lưới “tai mắt” tại địa phương giáp ranh, kịp thời phát hiện những người “manh nha” ý đồ vào rừng chặt phá. Hàng năm, chúng tôi phải chi hơn 1 tỷ đồng cho việc tuần tra, bảo vệ rừng. Việc giữ lại rừng xuất phát từ bảo vệ tài nguyên rừng tự nhiên, giữ lại dấu ấn Chiến khu Đ. Tôi mong muốn nơi đây trở thành nơi cựu chiến binh gặp gỡ, ôn lại truyền thống lịch sử và là địa chỉ đỏ giáo dục lịch sử cho thế hệ sau” - Ông Dần chia sẻ.
Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Bình Phước, ông Trần Xuân Huệ khẳng định, toàn bộ diện tích rừng thuộc Tiểu khu 379 (Nông lâm trường Tân Lập, huyện Ðồng Phú, tỉnh Bình Phước) được Công ty B.58 quản lý, bảo vệ tốt, không bị tác động, chặt phá. Ðây là khu rừng nguyên sinh hiếm hoi, đúng nghĩa.
Ông Nguyễn Công Trường kể: “Trước kia, lâm tặc vào rừng chặt phá, săn thú. Khi bị chúng tôi phát hiện, chúng chống trả quyết liệt. Có lần, vì không cho chúng chặt hạ cây, chúng đã dùng súng, dùng dao đe dọa. Nhiều anh em đã phải đổ máu mới giữ được rừng như bây giờ”.