Đúng như nhận định của Trường, tối đấy chúng tôi lại nhận lệnh đi tuyến. Nhiệm vụ lần này là điều nghiên, vẽ sơ đồ thực địa toàn bộ phần phía nam đồi Tử Thần.
Không như bữa đầu, lần này tôi rất háo hức chờ tới giờ xuất phát. Ngay sau bữa ăn tối, tôi chuẩn bị kỹ lưỡng những thứ cần thiết cho mình. Chuyến đi này chúng tôi có thêm hai gương mặt mới. Cũng giống tôi, hai cậu này được bổ sung từ bên bộ binh qua. Long là người của Đại đội 3. Ngọc của Đại đội 2. Đại đội của Ngọc mới qua sông mấy bữa nay, vậy là cả tiểu đoàn của tôi đã có mặt toàn bộ ở bờ nam sông Thạch Hãn.
Long là người Ninh Bình, nhập ngũ năm bảy mươi, dáng thấp đậm, ít nói, đã từng phối hợp với bên trinh sát đi tuyến vài lần nên tỏ ra khá bình thản nhưng có tật nghiện thuốc lá dễ sợ, cứ một lúc lại thấy cậu ta vê thuốc. Rõ khổ, chỉ toàn thuốc vụn. Giấy cuốn cũng chẳng có. Long tận dụng giấy từ những lá thư của người thân từ hậu phương gửi vào mà cánh lính đã chuyền tay nhau đọc đến nhàu nát, thuộc lòng mới được dùng. Nghe Long nói, cậu ta hút thuốc từ khi mới sáu hay bảy tuổi gì đó. Hút nhiều tới độ hai ngón tay trỏ và giữa vàng khè, khói thuốc nhiễm sâu vào tận xương hôi mù. Cậu ta chuyên hút thuốc cuốn nên cách cuốn thuốc của cậu ta đã trở thành nghệ thuật. Cậu ta thường cuốn theo kiểu sâu kèn. Tôi đã mấy lần quan sát cậu ta cuốn và hút thuốc. Giấy cuốn được đặt lên lòng bàn tay trái, dúm một dúm thuốc bỏ vào, dùng tay phải ép mép giấy ôm khít phần sợi, khéo léo ép lòng bàn tay phải thật khít với lòng bàn tay trái rồi từ từ trượt nhẹ tay phải về phía trước. Bàn tay phải chưa chạy hết khỏi lòng bàn tay trái, một tác phẩm sâu kèn đã ra đời nhưng vẫn chưa xong, còn công đoạn dính mép giấy mới điệu nghệ. Nó đưa đầu lưỡi ra sát mép khóe miệng phải, đặt đầu nhỏ của sâu kèn vào giữa lưỡi, khép nhẹ môi, đảo lưỡi rất nhanh từ phải qua trái vậy là ổn. Một tác phẩm sâu kèn hoàn chỉnh không chê vào đâu được chính thức ra lò. Khi ấy chỉ việc bật lửa, tóp má rít một hơi thật sâu, ngửa cổ chầm chậm phả khói mù mịt chẳng khác mấy cái ống khói lò bánh mì ngay đầu phố nhà tôi. Thế mới gớm chứ!
Tôi vốn không hút thuốc nhưng nhìn cái cách cậu Long cuốn và hút thuốc, phả khói đầy sảng khoái khiến tôi rất thích thú nên cũng muốn thử. Một lần tôi xin cậu ta tờ giấy và ít thuốc, cố làm theo nhưng không sao làm được. Tờ giấy trên tay cứ bị vo tròn, sợi thuốc dạt lung tung. Nhìn tôi làm, Long cười như nắc nẻ, lấy lại giấy và thuốc trên tay tôi rồi phán:
- Còn tốn nhiều cơm gạo lắm, chí ít cũng phải có thâm niên vài ba năm hút thuốc mới thành thạo việc cuốn thuốc nghe em! - Miệng chưa nói hết câu, tay cậu ta đã vê xong điếu thuốc cho tôi rồi bật sẵn lửa khuyến khích - Rít thật mạnh, nuốt khói rồi từ từ nhả ra mới thấy hết cái sự sung sướng, nó cứ lâng lâng đê mê bay bổng, cảm giác khi ấy như lên tiên biết chưa?
Tôi làm theo lời cậu ta, kéo một hơi thật mạnh. Đốm lửa trên đầu điếu thuốc đỏ rực, khói thuốc chui vào họng như nắm đấm thúc tới, đứng sững giữa thanh quản làm cổ họng nghẹn tắc, miệng đắng nghét khiến tôi ho sặc sụa không thể nói, nước mắt nước mũi trào ra tèm lem làm thằng Long và mấy đứa có mặt trong hầm được một phen cười ngặt nghẽo.
Sau lần ấy tôi không bao giờ dám hút thuốc nhưng có điều lạ, tôi rất thích châm thuốc cho mấy con nghiện, nhất là những gã hút thuốc lào.
Trái ngược hẳn với Long, thằng Ngọc nhỏ hơn tôi ba tuổi, nó vừa tròn mười tám, mới vào đây được hai tháng. Nó cao tới một mét bảy lăm, người hơi ốm, nước da trắng như con gái và rất hay chuyện. Nó có chiếc răng khểnh, mỗi khi cười rất dễ thương. Thằng Ngọc quê đất Tổ - Phú Thọ.
Mới ở cùng nhau hai ngày nhưng tôi rất thích tính thằng Ngọc. Nó là con nhà thuần nông nên tính tình chân chất thật thà. Ngọc kể chuyện nhiều về gia đình. Nhà nó có bảy anh chị em, Ngọc là út. Mặc dù gia đình nghèo khó nhưng vì là út, nó được bố mẹ và các anh chị chiều chuộng. Các anh chị của Ngọc chẳng ai học qua lớp bảy. Năm học lớp bốn Ngọc thi vượt cấp từ cấp một lên cấp hai chỉ đỗ vớt. Cố đấm ăn xôi, học tới lớp bảy thì quyết định nghỉ học mặc dù cả gia đình tạo mọi điều kiện để nó học lên nữa. Nó nói rằng, mỗi buổi học đặc biệt là tiết toán, những công thức, quy tắc cứ lộn tùng phèo mơ mơ hồ hồ. Đánh vật với con chữ tối mắt mà vẫn dốt đặc cán mai, thà ở nhà đi cày đi cuốc mệt nhọc một chút nhưng vẫn sướng và thoải mái hơn nhiều lần phải đi học - Nó nói vậy.
Khi thôi học, bố mẹ và các anh chị ra sức khuyên nhủ nó cũng chẳng nghe. Nó quyết định về phụ bố mẹ việc đồng áng. Vừa bước vào tuổi mười bảy, nó viết đơn tình nguyện đi bộ đội. Ngọc còn kể, nó có người anh thứ hai đi bộ đội đã ba năm, đang ở mặt trận Thừa Thiên - Huế. Hơn một năm rồi không nhận được tin tức của anh, không biết còn sống hay đã hy sinh. Nó vào đây đã dò hỏi để tìm nhưng vẫn chưa có kết quả. Anh thứ tư của Ngọc thì ở chiến trường miền Đông Nam Bộ.
Ngọc cũng giống tôi, khi nhận lệnh đi tuyến cũng hồi hộp lo lắng nên phải động viên nó: “Tớ cũng từng như cậu, lần đầu phải chui vào tận giường ngủ của thằng địch làm sao không run nhưng khi mình tự tin, mọi chuyện sẽ ổn, sẽ hết lo…”.
Hướng dẫn thằng Ngọc những điều phải làm, cần ghi nhớ khi đi tuyến xong Trường động viên thằng Ngọc rất nhiều nên nó đã tỏ ra thoải mái hơn.
Chuyến đi hôm nay của tụi tôi cũng như cách đây hai ngày, mười giờ đêm đã được lệnh xuất phát. Thay vì đi ba tổ tam tam như chuyến trước, lần này chúng tôi chỉ đi hai tổ nhưng mỗi tổ kèm thêm một người là Long và Ngọc.
Tổ một có tôi, Trường, Đoan, thêm Long. Tổ hai có Đại đội trưởng Năm Thắng, Nhâm, Hóa và Ngọc. Tám người chúng tôi để mình trần quần xà lỏn, khắp người trát bùn ngụy trang theo màu đất của đồi Tử Thần. Súng AK, lựu đạn. Lần này anh Năm Thắng còn mang thêm chiếc máy ảnh nếu đủ điều kiện ánh sáng có thể chụp hình, anh sẽ chụp toàn bộ khu vực ẩn giấu xe tăng và xe thiết giáp của quân Sài Gòn.
Mất hơn một giờ đồng hồ luồn lách qua những vạt rừng thưa, những ngôi nhà bỏ hoang, vượt qua các cánh đồng đã lâu không có người cày cấy, chúng tôi tiếp cận chân đồi. Men theo phía bờ sông Thạch Hãn, tiến về phía nam đồi Tử Thần. Khi đã áp sát chân đồi bắt đầu tách tổ.
Tổ của tôi chịu trách nhiệm điều nghiên phần còn lại của quả đồi mà bữa trước chúng tôi chưa thể làm. Tổ của thủ trưởng sẽ luồn sâu xuống phía nam nơi ẩn giấu những chiếc xe tăng và xe thiết giáp của địch.
Trước khi hai tổ chia tay, chúng tôi chụm đầu vào nhau hứa quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, nếu bị lộ sẽ chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, nhất định không để địch bắt sống và đúng như thống nhất, bốn giờ sáng phải có mặt tại nơi tập kết. Chúng tôi nắm chặt tay, chạm vào nhau lần cuối hạ quyết tâm. Đại đội trưởng đưa tổ của mình luồn sâu xuống phía sau đồi Tử Thần, tổ của tôi bắt đầu bò ngược, Trường dẫn đầu, Đoan bò cuối cùng. Có lẽ phía sau quả đồi ít bị pháo của ta bắn tới nên cỏ dại, cây bụi mọc dày đặc cao đến ngang bụng và độ dốc cũng dốc hơn chân đồi phía Bắc nên khi luồn lách, bò ngược lên đỉnh đồi khá vất vả. Mất gần hai mươi phút chúng tôi mới tiếp cận được hàng rào đầu tiên. Trường bắt đầu thao tác cắt rào…
Qua được hàng rào thứ nhất, chúng tôi nhanh chóng vượt qua con đường tuần tra của địch tiếp cận hàng rào thứ hai, đó là một hàng rào bùng nhùng. Trường vừa chui luồn vừa dò dẫm gỡ mìn. Được một đoạn lại phải lật ngửa người, đẩy rào lên cao cố định lại, cắm tiêu hai bên. Mất mấy phút Trường cũng tạo xong lối mở, chúng tôi lần lượt lọt vào, băng qua một khoảng đất trống và tiếp cận hàng rào cuối cùng, đó là hàng rào cứng cao chừng một mét rưỡi, trên đầu hàng rào có ba mũi sắt sắc nhọn được hàn chẻ ra ba hướng. Lợi dụng đèn pha trên đài quan sát của địch chuyển hướng qua phía Bắc, hai người một lập tức vượt rào. Khi vượt rào an toàn, Trường và Long đột nhập qua trái, tôi và Đoan bò qua phải. Ngó đồng hồ đã hơn một giờ đêm, tôi và Đoan nhanh chóng tiếp cận sân đỗ máy bay trực thăng, đếm số lượng rồi băng qua con đường dẫn từ chân đồi lên nhanh chóng tới trận địa pháo. Ở đây có hai khẩu 175 ly và một khẩu 105 ly. Tiếp tục trườn sâu vào khu trung tâm, tôi phát hiện một hầm bê tông nửa nổi nửa chìm, có lẽ là hầm chỉ huy bởi nghe tiếng máy phát điện chạy ro ro. Nằm ép người dưới những bao cát được xếp chồng trên bề mặt công sự kiên cố, tôi nhìn rõ mặt hai thằng lính gác ở cửa hầm đang phì phèo hút thuốc do ánh sáng điện từ trong hầm hắt ra, đốm lửa ở đầu điếu thuốc lòe lên đỏ rực trên môi chúng. Lặng lẽ trườn bên dưới những bao cát ngay phía trên công sự của địch, tiếng ngáy ò ò của tụi lính trong hầm nghe khá rõ.
Kiểm tra thật kỹ, không phát hiện các điểm hỏa lực của địch như cối, đại liên… tất cả được bố trí phía tây bắc của quả đồi, đối mặt với các chốt của ta.
Những gì địch bố trí phía nam quả đồi, chúng tôi cố ghi nhớ trong đầu rồi quyết định rút. Xuống tới nơi tập kết mới hơn ba giờ. Giấu mình trong đám cỏ um tùm chờ đồng đội. Chừng mười lăm phút, Long và Trường cũng trở ra. Trường luôn ra sau cùng bởi tổ trưởng của chúng tôi phải xóa dấu vết, tháo cố định hàng rào bùng nhùng trả chúng về vị trí ban đầu. Lúc này đã ba rưỡi sáng, chưa thấy tổ của đại đội trưởng, Trường lệnh cho tôi, Đoan và Long về trước, mình hắn ở lại đợi tổ hai.
Chúng tôi rời đi được chừng hai mươi phút thì dội lên tiếng nổ loạn xạ phía nam chân đồi. Tôi thoáng nghĩ - chắc có chuyện rồi. Ba chúng tôi đứng khựng lại. Quả nhiên, pháo sáng bắn lên sáng như ban ngày, tiếng AK dội lên chừng vài phút rồi im lặng trở lại. Ba chúng tôi quay về cứ nhưng trong lòng lo lắng vô cùng. Về đến cứ, chúng tôi chỉ biết chờ đợi và cầu nguyện mọi sự tốt lành đến với đồng đội của mình.
Tảng sáng Trường mới về tới, mặt nó buồn so, mắt đỏ hoe, tôi biết đã có đồng đội hy sinh. Đoan, Long và tôi ngồi xúm quanh nghe Trường kể:
- Tớ nằm chờ một lát thì đại đội trưởng và Ngọc ra. Năm Thắng lệnh cho mọi người rời xa chân đồi, tới bãi cỏ rậm rạp cách đó chừng ba mươi mét, ém mình ở đó đợi Nhâm và Hóa nhưng bỗng nghe súng nổ, đèn pha quét tới, pháo sáng bắn lên. Tiếng AK điểm xạ đanh gọn. Nhâm và Hóa bắt đầu đánh trả, vừa đánh vừa rút ra phía bờ sông, nhưng bọn địch cũng đoán được đó là con đường thoát duy nhất của Nhâm và Hóa, chúng tập trung rất đông tạo thành một lớp bịt kín lối thoát. Thấy hai đứa bị bao vây, tớ định lao vào hỗ trợ nhưng… thủ trưởng ngăn lại. Anh Năm Thắng nói rằng, phải bình tĩnh, địch có tới bốn, năm chục thằng, chúng ta có vào tất cả ba người hỗ trợ cho Hóa và Nhâm cũng sẽ hy sinh hết bởi mình làm gì có đủ đạn…
Nghe thủ trưởng nói vậy, tớ đành nằm im, máu trong người sôi lên. Tụi mình còn nằm lại theo dõi cho tới lúc lựu đạn phát nổ. Tớ biết, cả hai băng đạn của mỗi đứa đã cạn, lựu đạn cũng đã hết chỉ để dành mỗi đứa một trái.
Bọn lính quân lực Sài Gòn chết và bị thương khá nhiều nhưng biết hai thằng đã hết đạn, chúng quyết bắt sống bằng được.
Trong ánh đèn pha sáng trắng, tớ thấy rõ Nhâm và Hóa quay lưng vào nhau, mỗi đứa một con dao găm thủ thế. Sáu, bảy thằng địch đồng loạt nhào tới khống chế, ôm cứng Nhâm và Hóa, chúng không ngờ hai đứa còn thủ lại lựu đạn.
Mấy thằng địch vừa vật được Hóa và Nhâm nằm xuống… hai tiếng lựu đạn lập tức phát nổ tạo thành một quầng lửa... Tớ nhắm nghiền mắt cố kìm lòng không muốn chứng kiến hình ảnh đau đớn ấy. Anh Năm Thắng nghiến răng kèn kẹt rồi nói nhỏ như nói với chính anh: “Vĩnh biệt hai em. Vĩnh biệt những người đồng đội thân yêu của tôi!”. Nói dứt lời, anh ra lệnh ngắn gọn: Rút!