• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Hạnh phúc đến từ sự biến mất
  3. Trang 15


11

Trèo lên đỉnh tháp samàdhi

Ajahn Tate là một trong những bậc tôn sư mà tôi yêu kính nhất, một người đáng bậc A La Hán. Tôi không bao giờ quên lần diện kiến thầy tại tu viện ở tỉnh Nong Kai, nằm trên bờ sông Mekong. Đây là tu viện do chính Quốc vương Thái Lan xây cho thầy, một tu viện rất nguy nga nằm trong rừng. Tôi còn nhớ như in cảm giác lúc bước chân vào nơi này. Phong cảnh hữu tình nhìn ra sông, tại một góc chùa, nhà sư già đang ngồi uy nghiêm. Từ vóc người của thầy phát tiết tinh hoa về một con người thanh tịnh, một nhà tu hành chánh quả. Thầy ngồi dưới gốc cây mà như hòa nhập vào cành cây phía trên đầu. Thầy được chính Quốc vương phong sắc trụ trì nơi này.

Trước khi đến yết kiến thầy, tôi cứ đăng đăng suy nghĩ về những câu hỏi sẽ đặt ra cho vị chân sư này. Nhưng đến khi tôi tiếp cận thầy, tất cả những câu hỏi được chuẩn bị trước đã trôi sạch, mục đích của chuyến đi hầu như cũng thành vô nghĩa. Thay vì đặt câu hỏi, tôi liền thốt ra lời khôn ngoan: “Tốt hơn chúng ta không hỏi đáp nữa mà tự mình tìm ra câu trả lời”. Nghe vậy, thầy mỉm cười đáp: “Tốt quá. Đó thật là thái độ đúng đắn”. Thay vì dựa dẫm vào người khác, chúng ta nên tự tìm ra chân lý và tự có trách nhiệm tu rèn đạo hạnh, sự an định và Tuệ cho chính mình.

Hãy cứ thật đơn giản

Ngày nay chúng ta thường bị bội thực thông tin. Đa số chúng ta nén hàng đống lời đàm đạo, cùng với lời chỉ dẫn vào chiếc iPod của mình. Tu viện chúng tôi có đầy đủ Kinh Kệ tiếng Pali, tiếng Hoa, tiếng Thái, tiếng Anh và có cả tiếng Đức. Tất cả cũng lưu vào máy vi tính trong văn phòng của tôi. Những giáo lý trong Phật Pháp Dhamma rất nhiều và đôi khi ta tự hỏi thật sự bao nhiêu là đủ. Mỗi lần, ta chỉ có thể nghe một Kệ Kinh, và đối với nhiều người một Kệ Kinh là đủ để chứng ngộ chân lý và đạt đến sự an lạc, sự cân bằng trong cuộc sống. Nhưng ngày nay, nhiều người ngấu nghiến thông tin. Thân thể nhiều người bị béo phì, thừa cân bởi vì ăn quá nhiều và bộ não bị quá tải, ục ịch vì tiêu hóa quá nhiều thông tin. Trừ phi chúng ta biết cách xử lý tất cả thông tin ấy, còn không nó chỉ làm chúng ta bối rối. Chúng ta cần nhớ rằng tinh hoa Phật Pháp rất rõ ràng và đơn giản: răn dạy chúng ta đừng làm điều xấu, hãy làm điều thiện, và thanh tịnh Tâm (Dhp. 183). Tất cả có thể tóm thành một đạo lộ từ bi yên bình và hòa hợp. Những giáo huấn đơn giản thường là giáo huấn hay nhất.

Như Đức Phật răn dạy, chúng ta toàn tâm toàn ý từ bi và tuân thủ những giáo huấn của Ngài – Giới (sīla), Định (samādhi) và Tuệ (paññā). Và chúng ta không thể chỉ nghĩ đến những giáo huấn này; mà chúng ta phải thật tu tập chúng. Chỉ khi đó mới dẫn tới an bình, tự do và hòa hợp. Chúng ta làm được gì mới quan trọng, và chúng ta chỉ biết được kết quả nhờ vào việc đúng đắn chúng ta làm. Chính vì vậy, Đức Phật truyền dạy cho đại đức Upāli(11) rằng một người chứng biết cái gì tương ứng với Pháp Dhamma, với con đường chánh đạo, nếu điều đó dẫn đến tự do và an bình (AN 7:83).

Cảm giác tự do và yên bình được vun đắp khi bạn luyện tập chính xác. Khi mọi chuyện xảy ra, Tâm nhìn và biết đây là bản chất của Luân Hồi – mà Luân Hồi chính là bể khổ. Bạn trông thấy bể khổ mà không phản ứng lại, chỉ đứng ngay trung tâm của nó, đúng như bản chất của nó.

Trong những điều răn dạy của Đức Phật, những bậc A La Hán vĩ đại truyền rằng: Thế giới đơn thuần là bể khổ, nổi lên rồi lại chìm xuống (SN 12:15). Những bậc A La Hán này thường không được nhận ra. Họ sống lặng lẽ, hòa với mọi người xung quanh. Họ ăn uống, làm việc, đi ngủ vào ban đêm và thức dậy vào buổi sáng. Vì họ gắn liền với cộng đồng, không nổi bật nên họ hầu như hòa biến vào chúng sinh. Đó là cuộc sống điềm đạm, thanh bạch – họ đang đều đặn và nhất quán tu rèn hàng ngày. Cuộc sống như vậy là tu rèn đúng Phật Pháp.

Hồng phúc từ sự giữ nghiêm giới luật và kiềm chế bản thân

Những bậc chân sư có thể dạy cho người khác thực hành giới luật và những giáo huấn, nhưng chung quy, họ không biết được người khác thật sự tu rèn cái gì. Những gì họ làm được chỉ là hướng dẫn, truyền dạy Đức Phật đã làm gì, Kruba Ajahn đã làm gì, và trong những điển kinh có răn dạy những gì: Nếu bạn muốn sống một cuộc đời yên bình và hạnh phúc, bạn phải kiềm chế những chướng ngại – những bợn nhơ. Cho dù bạn là nhà tu hành hay người bình thường, nếu bạn nuông chiều buông thả theo những thú vui nhục dục, bạn sẽ làm kiệt quệ nguồn sức mạnh tâm linh, và bị kéo lê theo nhịp đời thế gian. Người chạy theo những thú vui kiểu như vậy có thể hạnh phúc bề ngoài, nhưng nhìn sâu vào nội tại, họ còn chất chứa nhiều uẩn khúc. George Bernard Shaw, khi được hỏi tại sao những người có đức tin dường như hạnh phúc nhiều hơn so với những người không có đức tin, ông đáp rằng không có sự khác nhau giữa kẻ say rượu tỏ ra hạnh phúc hơn người tỉnh. Tương tự như vậy đối với thế giới của năm giác quan, theo đuổi những thú vui (kiểu như xem phim, đi tiệc tùng, làm tình) giống như chuốc rượu vào các giác quan. Nó là một dạng ảo tưởng và ta phải trả giá cho nó sau này. Ta đang vay mượn niềm vui, sau đó ta trải qua tiêu cực, lo lắng và thậm chí là trầm uất.

Trong Kinh Sa Môn Quả Sāmaññaphala Sutta (DN 2.63), Đức Phật thuyết giảng rằng bất kỳ ai giữ nghiêm đạo hạnh sẽ được hưởng loại hạnh phúc anavajjasukha, niềm hạnh phúc từ sự vô tội, không có gì để bị khiển trách. Thật tuyệt vời khi nhờ sự tu tập của bản thân mà trải nghiệm được chân lý từ những giáo huấn như vậy. Khi ta tuân thủ giáo huấn, kiềm chế bản thân, và làm đúng chỉ giáo trong một thời gian dài, ta cảm thấy hài lòng về chính mình. Ta không làm những điều khuất tất mà người khác không biết đến, họ nghĩ là ta thông minh vì ta ấp ủ những thú vui bí mật. Những điều đó thật ra không bao giờ là bí mật cả, bởi vì bản thân ta biết và bản thân ta quan tâm. Ta không nhất thiết phải cảm thấy tội lỗi hay trừng phạt bản thân, nhưng ta đã bỏ lỡ niềm hạnh phúc xuất phát từ sự tự do, không bị khiển trách. Nếu ta ngẫm nghĩ nghiêm túc về cuộc đời mình, ta có thể thấy tác động từ những hành động của mình lên mức độ hạnh phúc, yên bình và tự do của chính mình.

Kiềm chế bản thân cũng mang lại cho bạn cảm giác về quyền lực. Đó là điều tôi trải nghiệm mỗi lần tôi từ bỏ cái gì đó và kiềm chế khát khao, cho dù khi tôi còn là người thường hay lúc đã là nhà sư. Đó là cảm giác khi tôi bỏ rượu thời còn sinh viên. Tôi cảm nhận được quyền lực, không gục ngã trước chướng ngại – ta đá đít chúng và tự do thoát khỏi chúng. Ví von theo nghĩa đen thì giống hệt như ta thoát khỏi ngục tù hoặc thân phận nô lệ. Càng nuông chiều năm giác quan, ta càng buộc chặt mình vào gông cùm. Nhưng càng ngưng thèm muốn, căm ghét, ảo tưởng, ta càng đi theo con đường quả vị A La Hán và càng trải nghiệm hạnh phúc, yên bình.

Hãy tự hỏi Đức Phật đã tu rèn như thế nào, tôn giả Mục Kiền Liên Mahāmoggallāna hay tôn giả Xá Lợi Phất Sāriputta đã tu luyện ra sao. Nếu bạn làm theo tấm gương của những vị chân tu được vinh danh trong các Điển Kinh đó, bạn không thể đi sai đường. Bạn sẽ tu rèn Tâm an trụ, cân bằng và hạnh phúc, bởi vì bạn kiên định, buông bỏ và vượt qua được, chế ngự được những Nhân gây nên bể khổ trong đời.

Vì vậy, khi bạn bắt đầu thực luyện giới luật, mức độ hạnh phúc của bạn tăng lên. Do bạn có nhiều hạnh phúc hơn nên Tâm bạn an định hơn và việc hành thiền tiến triển hơn. Hồng phúc cho bạn cảm giác thỏa mãn. Thỏa mãn, hài lòng là kết quả của việc kiềm chế bản thân bởi vì Tâm bớt làm nô lệ cho những khát khao (tham). Làm ơn hãy nhận ra niềm an lạc của sự tự do nhờ thoát khỏi tham, thoát khỏi những khát khao. Ở trên đời, bạn không ngừng bị dắt mũi – bạn mải mê nhìn ngắm gái xinh, trai đẹp. Chẳng sớm thì muộn họ sẽ hẹn hò với nhau, rồi bị trói buộc. Bạn đã đưa tay vào còng – chiếc nhẫn đính hôn và chiếc nhẫn cưới. Thế rồi bạn mắc kẹt vào những bổn phận năm này qua năm khác. Hôn nhân vốn hay gãy đổ; thế rồi suốt cuộc đời còn lại của mình, bạn phải thanh toán tiền cấp dưỡng cho vợ sau khi ly hôn. Do vậy, hãy cẩn thận với những gì bạn làm nếu bạn muốn nhận được tự do thật sự.

Hãy là chủ nhân đối với những khát khao của mình

Ban đầu, bạn bị mắc kẹt trong thế giới, bạn nghĩ bạn làm chủ tham của mình và có thể kiểm soát chúng. Nhưng nếu bạn buông thả, bạn sẽ thấy chẳng bao lâu sau tham đã kiểm soát bạn. Thay vì có lựa chọn, bây giờ bạn phải thỏa mãn chúng. Cách đây đã lâu tôi có xem một vở kịch nhan đề Waiting for Godot. Trong vở kịch này, một trong những nhân vật có một con chó. Ở phần đầu tiên của vở kịch, anh ta dẫn chó đi vòng quanh. Đến phần thứ hai, con chó là “ông chủ” và “người sở hữu” phải bò bốn chân, đeo vòng cổ và dây xích. Một trong những chủ đề của vở kịch là ông chủ và đầy tớ thường hay hoán đổi vai trò, và sự thật cũng y chang trong mối quan hệ của chúng ta với những khao khát. Ban đầu chúng ta nghĩ mình kiểm soát những khao khát của mình và mình sai khiến chúng theo ý chí, mục đích của mình; nhưng rồi lúc nào chẳng hay, trước khi chúng ta kịp nhận ra, thì tham và sân, cùng những trạng thái của Tâm đã kiểm soát chúng ta.

Để tự do, chúng ta phải kiềm chế; chúng ta phải nói “Không” với tham và sân. Khi chúng ta không nuông chiều những trải nghiệm từ những giác quan, chúng ta cảm nhận một sự tự do mãnh liệt. Chúng ta không còn làm nô lệ cho những trải nghiệm ấy nữa. Nếu bạn không ngủ được vì bạn đang ở trên một chuyến bay đêm, thật tốt khi biết rằng bạn không cần giấc ngủ đó. Thật dễ chịu khi hàng ngày đều ăn đúng bữa, nhưng nếu bạn không được ăn, thì nó cũng không làm phiền bạn lắm. Vì ngay cả Đức Thế Tôn cũng không khuyến khích sự hấp tấp, đôi khi nhanh một ngày cũng tốt, nhưng chỉ để tìm hiểu xem bạn có còn tĩnh tại trong việc đối phó với tham, những khao khát, của mình hay không.

Cách đây nhiều năm tôi quyết định cai trà trong suốt ba tháng tu thiền mùa mưa. Ngay khi tôi tuyên bố điều đó, một trong những nhà sư sống cùng với tôi lúc đó đến gặp tôi, bày tỏ nỗi lo lắng, bởi vì ông biết đấy là một hy sinh vô cùng lớn đối với một người Anh như tôi. Vài năm trước đó, một thầy tu người Anh khác đã làm điều tương tự nhưng ông ấy thấy rất khó thực hiện. Tôi đáp rằng tôi quyết định sống vui vẻ mà không có trà, và cuối cùng nó cũng không làm phiền tôi lắm. Vì vậy, đôi khi cũng cần nới lỏng cú siết của tham. Càng có ít tham, bạn càng ít cần tới chúng, bạn càng tự do thoát khỏi chúng. Bạn biết rằng những thứ đó không làm chủ bạn – chính bạn mới là người làm chủ chúng.

Nếu bạn kiềm chế, nếu bạn nói “Không” với tham và sân, bạn không chỉ nhận được cảm giác tự do và yên bình tất yếu mà bạn còn cảm thấy tự tin vô cùng. Nếu bạn tuân thủ giới luật, bạn có thể đi tới bất kỳ nơi đâu mà không sợ hãi (DN 16.1.24). Do những khao khát không kiểm soát được bạn nên bạn linh hoạt, có thể thích nghi với mọi hoàn cảnh thay đổi. Vì vậy, sự kiềm chế sản sinh cảm giác tự tin, và cảm giác độc lập rất tuyệt diệu.

Bạn nên rèn luyện để chứng ngộ tự do, yên bình, hồng phúc từ trái tim nhân từ và nếp sống đạo hạnh. Khi bạn hiểu đúng về đạo hạnh, bạn biết nó là sự tự do khỏi bể khổ. Giống như đứa trẻ thò tay vào lửa, chúng ta phải chịu cơn đau đớn khi chúng ta làm điều sai trái. Nhưng ngay khi đứa trẻ học được từ kinh nghiệm của mình và không thò tay vào lửa nữa, vì vậy chúng ta quan sát đủ nhiều để thấy những tác động từ hành vi của mình. Nếu chúng ta không làm thế, chúng ta vẫn nằm dưới quyền lực của tham và sân, của tội lỗi và nhiều chướng ngại khác, chúng chỉ phát sinh thêm nhiều đau khổ. Đạo hạnh thật sự là tạo nên yên bình, tự do và an lạc. Tương tự như với hành thiền, nếu bạn thật sự buông bỏ và làm lắng dịu Tâm, điều đó cũng sẽ dẫn đến những trạng thái thanh cao, sung sướng, dễ chịu.

Kim tự tháp samadhi và sự chứng ngộ

Đức Phật dạy – đây là một phần trong số những Kệ Kinh nhật tụng tại các tu viện – khi giáo huấn Định samādhi được đạo hạnh truyền thêm sức mạnh, ắt sẽ mang lại kết quả và lợi ích khôn tả (DN 16.1.12). Đức Phật cũng khuyên răn nếu ta không kiềm chế trước những chướng ngại và không tận tâm thực hiện điều đúng đắn thì sự chứng đắc giáo huấn tầng Định samādhi sẽ suy yếu. Khi con người nghĩ tới hành thiền, họ thường tự hỏi họ nên nhìn hơi thở như thế nào, họ phải làm gì khi một Định Tướng nimitta nổi lên, và những pháp hành thiền khác vận hành ra sao, chứ ít khi người ta thắc mắc xem cái gì cung cấp nhiên liệu cho samādhi. Thật dễ quên rằng giới luật và kiềm chế quan trọng vô cùng cho sự thành công của giáo huấn Định samādhi.

Trong Kinh Tāyana Sutta (SN 2:8) truyền rằng ta không thể tiếp cận được tính độc nhất/thống nhất của Tâm, tức Định samādhi, mà không buông bỏ năm giác quan và khát khao tính dục. Đó là giáo huấn quan trọng. Chúng ta biết thế giới của năm giác quan là bể khổ; chắc chắn sẽ dẫn tới những khó khăn và vấn đề phức tạp. Khi tôi nỗ lực làm việc để duy trì cuộc sống tu hành hoặc để dẫn dắt hội Tăng Già, tôi biết sẽ tràn đầy khổ đau, phiền não, bởi vì tất cả những việc ấy đều rơi vào thế giới của thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác và xúc giác. Luôn phải đấu tranh hầu giữ cho mọi thứ nổi lên, không bị chìm; tôi không mong nó dễ dàng là nhờ tôi đảm trách. Thực tế là bạn không thể thoát khỏi bể khổ trong thế giới năm giác quan, vì vậy chỉ có duy nhất một giải pháp: bạn phải buông bỏ nó đi. Mục đích duy nhất của hành thiền – quy trình dẫn tới giáo huấn Định samādhi – là lắng dịu năm giác quan và rèn cho Tâm an định. Chỉ khi xuất phát từ an bình và an định, từ sự buông bỏ, bạn mới cảm nhận viễn cảnh thực tế về thế giới.

Hồi còn trẻ, tôi đã đi tới Trung Mỹ. Tôi đi xuyên rừng già bán đảo Yucatan, rồi sau đó leo lên một trong những kim tự tháp cổ xưa nhất của người Maya. Lần đầu tiên trong nhiều ngày, tôi có thể phóng tầm nhìn vượt xa khỏi cảnh vật xung quanh mình và dõi mắt xa tít tới khu vực lân cận. Đây là ví dụ sống động cho những gì xảy ra trong hành thiền. Khi bạn chứng phát trạng thái thích hợp của giáo huấn Định samādhi, Tâm của bạn trở nên trong suốt đến nỗi bạn có thể nhìn thấy viễn cảnh của thế giới mà trong đó bạn đang chật vật đấu tranh.

Đây là khía cạnh quan trọng của Tuệ. Khi bạn bước ra ngoài cái “tôi” bình thường của mình, bạn có tầm nhìn chính xác và tiếp cận những gì bạn đã và đang làm từ bấy đến nay. Bạn có thể thấy rằng mặc dù bạn nghĩ mình đang rất khôn ngoan, nhưng hóa ra không phải như vậy. Mặc dù bạn nghĩ mình đang sống tốt, nhưng thỉnh thoảng bạn vẫn gây tổn hại đến bản thân và đến người khác. Trong khi tôi du khảo qua rừng rậm, tôi không thể thấy mình đang đi đâu và đó là một trận chiến cam go. Nhưng khi lên đến đỉnh kim tự tháp, tôi có thể thấy đâu là lộ trình tốt nhất nên đi, tuyến đường nào là ngắn nhất và dễ dàng nhất. Tương tự, khi bạn hành thiền đúng, bạn hiểu thế giới là gì, bạn nhận ra con đường yên bình nhất, tránh khỏi những tai ương khi đi qua khu rừng cuộc đời.

Khi bạn thấy rõ, bạn ngưng mong chờ từ cuộc đời. Đó là định nghĩa của tôi về bể khổ: mong chờ từ cuộc đời thứ mà nó không bao giờ cung cấp được. Nếu bạn muốn quá nhiều từ cuộc đời, bạn đau khổ. Bạn tự tạo nên đau khổ bằng sự kỳ vọng, mong mỏi của mình. Khi bạn hiểu những giới hạn của cuộc đời, và những hạn chế trong khả năng của bạn, bạn biết rằng tất cả những gì bạn có thể làm là cố hết sức giúp đỡ và không làm hại người khác. Nhưng thậm chí với ý định tốt nhất, đôi khi bạn cũng không thành công. Đó là cuộc sống; bạn không thể làm gì để thay đổi điều đó. Lòng từ bi, bác ái đối với thế giới xung quanh bạn xuất phát từ việc thấy sự vật hiện tượng đúng như bản chất của chúng – thấy bản chất của rừng rậm là nguy hiểm và khổ đau. Ngay bây giờ, tất cả chúng ta đều có tuổi già, bệnh tật và cái chết vận chắc vào thân thể mình. Đây là bản chất của thân thể. Những gì ta cần làm là chấp nhận nó, sống hòa bình với nó.

Đức Phật dạy rằng tất cả chúng sinh đều bị hai mũi tên của bể khổ xiên ngang: mũi tên thể xác và mũi tên tinh thần (SN 36:6). Mũi tên thể xác là đau khổ liên quan đến thân xác, bạn chẳng thể tác động gì được lên nó. Cái bạn có thể làm là rút mũi tên tinh thần ra. Mũi tên tinh thần là thái độ “Tôi không muốn làm cái gì”, “Nó không nên theo kiểu như vậy”, “Tại sao lại theo cách này?”. Khi bạn đứng trên đỉnh kim tự tháp và nhìn bao quát cuộc đời, bạn sẽ thu vào tầm mắt mình một viễn cảnh thực tế và rõ ràng. Khi bạn từ kim tự tháp đi xuống, bạn sẽ khôn ngoan, trí tuệ hơn nhiều. Vì bạn khôn ngoan hơn, cuộc đời bạn yên bình và dễ dàng hơn, nỗi sầu khổ duy nhất bạn phải chịu là từ mũi tên thể xác. Bản chất của trí tuệ là nó mang lại cho bạn một cuộc đời tốt nhất có thể.

Con người có rất nhiều quan điểm, ý tưởng về nimitta và jhāna, bản chất của sự tồn tại, bốn chân lý cao quý. Mặc dù họ thường không biết họ đang nói về cái gì, nhưng họ vẫn cứ tiếp tục suy xét, tự biện. Đức Phật truyền dạy rằng Ngài chỉ dạy về bể khổ và sự chấm dứt bể khổ (SN 22:86), và tất cả những gì chúng ta cần là tập trung. Bằng cách tập trung, chánh niệm, chúng ta tâm niệm trên con đường đi tới yên bình và hồng phúc. Chúng ta đang học cách rời khỏi thế giới bằng cách trèo lên kim tự tháp nằm trong trái tim – kim tự tháp của hành thiền. Trèo lên đỉnh kim tự tháp ấy có thể giúp bạn biết tường tận những đặc điểm của trí tuệ: kiến thức về con đường Trung Đạo tới sự cân bằng, lắng Tâm, hồng phúc và yên bình. Khi bạn thấy bức tranh toàn cảnh, bạn trở nên tự do. Và dấu hiệu của tự do là một cuộc đời yên bình, đẹp đẽ. Chắc chắn bạn vẫn có những vấn đề thể xác, nhưng bể khổ – mũi tên tinh thần – đã bị rút ra.

Con đường Trung Đạo thâm diệu

Tất cả chúng ta đều phải chịu đủ nỗi ưu phiền khổ sở về thể xác và tinh thần. Mặc dù đôi khi chúng ta cố gắng giảm thiểu nỗi khổ về thể xác bằng cách này hay cách khác, chúng ta nhận ra rằng nỗi khổ như thế là tất yếu của việc có một thân thể, của việc sống trên trần gian này. Một bản chất nữa của cuộc đời là chúng sinh làm những điều ngớ ngẩn, làm tổn thương lẫn nhau, tự làm tổn thương mình và làm tổn thương người khác. Sống ở Úc, tôi thường thấy kangaroo đánh nhau ở gần tu viện để giành thức ăn. Ta để ý chúng tham lam biết chừng nào, giống hệt như loài người. Nhưng vì ta biết đó là bản chất của thế giới và chẳng thể làm gì được, ta chỉ mỉm cười rồi cho qua. Bạn biết rằng cách duy nhất để xóa bỏ hoàn toàn bể khổ là thông qua sự tự do, không bao giờ phải tái sinh nữa. Đó là thứ duy nhất bạn có thể ao ước có được. Thật vậy, ước muốn chứng ngộ Niết Bàn cho chính mình và người khác là hình thức yêu thương, từ bi cao nhất.

Trong Kinh Tam Bảo Ratana Sutta có dạy về con đường Đức Phật chứng ngộ Niết Bàn (Sn. 233). Nói cách khác, món quà quý giá nhất bạn có thể trao cho người khác là làm cho chính bạn chứng ngộ. Nếu bạn truyền cảm hứng cho chủ nghĩa vị tha, đó chính là điều bạn nên tâm niệm. Trừ phi bạn chứng ngộ, không thì bạn không thật sự biết mình đang làm gì. Chỉ khi bạn leo lên kim tự tháp trong trái tim – hành thiền – bạn mới biết được những vấn đề trần tục được vượt qua như thế nào. Chỉ khi bạn đi qua bên kia thế giới, và nhìn thấy bức tranh toàn cảnh – bằng tầm mắt loài chim, tầm nhìn của A La Hán – thì bạn hiểu toàn thể vũ trụ xoay vần ra sao. Khi bạn hiểu, khi bạn chứng ngộ Niết Bàn, bạn ngạc nhiên thấy mình đã bỏ lỡ nhiều điều trong chừng ấy năm như thế nào. Bạn phát Tuệ nhìn thấy rõ ràng những gì tạo nên yên bình và an lạc – một Tuệ không nhắm tới sự hoàn hảo, không bao giờ đòi hỏi những gì mà thế giới không cho. Do sự khai sáng đó, Tuệ này có thể xoa dịu sầu khổ. Hãy nhớ rằng bể khổ tức là đòi hỏi thế giới thứ mà nó không thể cho bạn.

Như vậy, hãy leo lên đỉnh kim tự tháp và từ đó nhìn ra xung quanh. Hình ảnh ẩn dụ này giúp bạn hiểu cảm giác của hành thiền thực thụ, vị của trí tuệ và sự giác ngộ, và cách thực hiện những điều đó như thế nào. Khi bạn hiểu điều này, bạn thấy được ý nghĩa của con đường mà Đức Phật đã đi qua, ý nghĩa của những giáo huấn về Giới, Định và Tuệ. Một khi bạn thực hiện tới tầng Tuệ cao siêu, bạn sẽ yên bình cho dù điều gì xảy ra đối với thân thể của bạn chăng nữa.

Người luyện tập con đường Trung Đạo là người từ từ biến mất. Đó là điều in dấu về hình ảnh Ajahn Tate ở Thái Lan. Ông ở cung điện nguy nga, nhưng ông đã biến mất. Khi tôi vào căn phòng đó, nó hầu như trống không. Tôi phải nhìn kỹ mới thấy nhà sư già nhỏ bé đang ngồi ở góc phòng. Vì vậy, công việc của bạn là cứ giống như Ajahn Tate và biến mất khỏi thế giới bể khổ.


(11) Đạo Phật không chấp nhận đẳng cấp. Đức Phật sinh ra trong một xã hội có sự phân chia đẳng cấp. Đấy là sự phân chia rất khắc nghiệt và ép buộc người thuộc đẳng cấp này không được liên hệ hay cưới hỏi người thuộc đẳng cấp khác. Hệ thống đẳng cấp tạo nên nhiều đau khổ cho mọi người. Ngài muốn loại bỏ đẳng cấp, nhưng Ngài không làm được. Tuy nhiên, Ngài loại bỏ hệ thống đẳng cấp trong những người học trò của Ngài.

Đại đức Upāli xuất thân là một người thợ cạo (được xếp vào tầng lớp cùng đinh), sau khi xuất gia đã tu luyện, được Phật tuyên dương là “Người giữ giới luật đệ nhất”. Trong kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhất, chính Ngài Upāli đã tụng đọc thuộc lòng Tạng Luật và Ngài Ānanda đã tụng đọc thuộc lòng Tạng Kinh. Như vậy, Ngài Upāli đã trở thành một vị đại đức, một nhà sư ưu tú trong số những học trò của Đức Phật.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 14
  • 15
  • 16
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 14
  • 15
  • 16
  • Sau