• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Hạnh phúc đến từ sự biến mất
  3. Trang 5

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 16
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 16
  • Sau

1

Bức tranh toàn cảnh

Dù bạn đang sống ở đâu – trong tu viện, nơi phố thị, hay trên một con đường yên tĩnh rợp bóng cây – kiểu gì bạn cũng phải nếm trải những vấn đề và những khó khăn vào lúc này hay lúc khác. Đây là bản chất của cuộc sống. Vì vậy, khi gặp vấn đề về sức khỏe, bạn không nên nói: “Thưa bác sĩ, có gì sai sai xảy đến với tôi. Tôi bị bệnh rồi”, mà nên nói: “Có điều đúng đắn xảy đến với tôi. Hôm nay tôi bị bệnh”. Bản chất của cơ thể con người là thỉnh thoảng sẽ bị bệnh. Thật hợp lẽ tự nhiên khi cơ thể nhiễm khuẩn và cần phải bùng phát, đúng lúc bạn không ngờ tới. Rồi cũng rất tự nhiên, hệ thống nước nóng có lúc bị hư. Bản chất của cuộc sống là vậy. Cho dù chúng ta cố đấu tranh nhằm tạo dựng cuộc sống êm ả hơn cho chính mình và cho người khác, thì cũng không thể chắc chắn điều đó sẽ xảy ra.

Bất cứ khi nào bạn trải qua đau đớn hay khó khăn, hãy luôn ghi nhớ một trong những ý nghĩa thâm sâu của từ bể khổ (dukkha) – tức là đòi hỏi thế gian phải cho ta điều mà thế gian không bao giờ cho ta. Ta mong chờ và đòi hỏi những điều không thể từ thế gian. Ta xin có được một ngôi nhà hoàn hảo, một công việc toàn mỹ. Ta mong muốn có tất cả những thứ ta cật lực làm việc để xây nên. Ta muốn sắp đặt công việc thật hoàn hảo vào đúng thời điểm. Nhưng đấy không phải là cách vận hành của vũ trụ. Nếu bạn đòi hỏi thứ mà thế gian không thể cung cấp cho bạn, thì bạn nên hiểu rằng bạn đang chuốc lấy bể khổ.

Do vậy, cho dù bạn làm công việc của người trần tục hay bạn là người tu hành, làm ơn hãy chấp nhận rằng mọi sự vật hiện tượng đôi lúc cứ trục trặc, hư hỏng. Việc của bạn không phải là đòi hỏi thế gian thứ mà nó không thể cho bạn; việc của bạn là quan sát. Việc của bạn không phải là cố sức thúc đẩy và giục giã thế gian đi theo con đường như bạn muốn; việc của bạn là hiểu, chấp nhận và buông đi. Càng chiến đấu chống lại cơ thể bạn, tâm trí bạn, gia đình bạn và thế gian, bạn sẽ càng gây ra thêm nhiều thiệt hại và càng phải nếm trải thêm sầu đau.

Đôi lúc, chỉ cần hiểu và đứng lùi lại, xa khỏi cuộc đời thường nhật, ta sẽ nhìn thấy bức tranh toàn cảnh. Rồi ta sẽ thấy chẳng có gì trục trặc với tu viện, chẳng có gì trục trặc với chúng sinh, và chẳng có gì sai trái với thế gian. Ta hiểu rằng thế giới “đi sai trệch” là lẽ tự nhiên – sầu khổ (Khổ Đế) là một trong bốn Chân lý Cao thượng (Tứ Diệu Đế) mà Phật Pháp truyền dạy. Ta làm việc, đấu tranh, cố gắng tận sức để vun đắp cho cuộc sống của mình tốt đẹp, nhưng rồi kiểu gì tất cả những thứ ấy cũng sẽ hỏng hóc, sai lệch.

Hiểu được bể khổ là động lực cho việc luyện tập hành thiền

Chân lý đầu tiên trong Phật Pháp đề cập tới bể khổ. Thiền định, trầm ngâm lặng nhìn sầu khổ là một phần quan trọng trong việc tu tập giáo lý nhà Phật. Ta không thể kiểm soát sầu khổ; mà thật ra ta nên cố hiểu nó, bằng cách điều tra những Nhân(1) của nó. Đó là điểm mấu chốt cho việc luyện tập hành thiền mà quyển sách này hướng tới – cũng là điều quan trọng trong thực tại, cuộc sống thường nhật của chúng ta – bởi vì loài người chúng ta mỗi khi nếm trải sầu khổ, hoặc phạm lỗi lầm, đều cố chạy trốn khỏi nó và cố thay đổi nó. Chúng ta đổ lỗi cho cỗ máy bị hư, nhưng bản chất tự nhiên của cỗ máy là hư. Sự vật hiện tượng bị hư hỏng, trục trặc, còn chúng ta thì sầu khổ. Do vậy, ta phải thay đổi thái độ của mình và ngừng chống chọi. Khi con người ngưng chống lại thế gian và bắt đầu hiểu về sầu khổ, ta sẽ nhận được phản ứng khác. Phản ứng đó gọi là Tuệ nibbidā (Tuệ chán nản)(2).

Phản ứng nibbidā xuất phát từ việc hiểu bản chất tự nhiên của Thân, của Tâm và của thế gian. Ta hiểu giáo lý thiêng liêng của đạo Phật; ta hiểu bản chất của việc xây tu viện, của việc gầy dựng mái ấm gia đình, của việc sống chung trong cộng đồng. Ta biết rồi sẽ có bất mãn và sẽ nảy sinh vấn đề. Ta đủ khôn ngoan để ngừng trốn chạy khỏi những vấn đề hay cố thay đổi chúng. Ta hiểu rằng vấn đề là cố hữu trong vòng Luân Hồi (saṃsāra). Đây là một trong những chứng ngộ tột cùng của Đức Thế Tôn, thúc đẩy Ngài truyền dạy bài học đầu tiên, Dhamma-cakkappavattana Sutta – Kinh Chuyển Pháp Luân (SN 56:11).

Khi ta nhận ra rằng sầu khổ là điều cố hữu trong vòng Luân Hồi, nó sẽ thay đổi phản ứng của ta. Giống như ta có một quả táo thối, ta cố cắt bỏ phần thối đi để có thể ăn phần táo còn lại. Khi đạt đến tầng Tuệ, bạn thấy toàn bộ trái táo bị thối và phản ứng duy nhất là giác ngộ Tuệ nibbidā – bỏ hết cả quả táo – bạn cảm thấy khiếp đảm trái táo, bạn quay lưng lại với nó, hay vứt nó đi luôn. Bạn thấy mình không cần quả táo đó; bạn có thể vứt bỏ nó. Quan trọng là hiểu sầu khổ trên thế gian này; quan trọng là nhận ra rằng sầu khổ và bất mãn là chắc chắn tuyệt đối. Sầu khổ không bao giờ nằm dưới tầm kiểm soát của bạn hay chịu khuất phục sức mạnh của bạn.

Khi ta hành thiền rồi chứng ngộ điều này, ta sẽ được ban động lực và niềm khích lệ trên con đường tu tập hành thiền. Như được thuyết giảng trong Kinh Chuyển Pháp Luân, khi Đức Phật chứng kiến chúng sinh già đi, lâm bệnh rồi chết, bấy nhiêu cũng đủ để thúc đẩy Ngài xuất gia đi tìm giải pháp diệt trừ sầu khổ (MN 26.13). Ngài nhận ra sắc thân tứ đại(3) của chính Ngài không chỉ già yếu, bệnh tật rồi chết mà còn vượt xa hơn thế. Nhận thức đó tiếp cho Ngài động lực lên đường tìm phương cách hóa giải những kiếp nạn này.

Từng cái trong ba kiếp nạn – lão, bệnh, tử – đều cố hữu trong chúng sinh. Đây là những thứ chờ đợi ta trong tương lai. Đó là điều chắc chắn xảy đến: ta sẽ già đi, sẽ mắc bệnh, rồi sẽ chết. Ta không thể làm gì để chống lại điều đó. Đây là sự thật về sự hiện hữu, sự tồn tại của bạn, của toàn thể loài người cũng như muôn loài khác. Mọi sự vật hiện tượng đều già nua, rệu rã và chết – mọi thứ đều trục trặc và hư hỏng. Đức Phật đủ thông tuệ để biết rằng ngay cả bản thân Ngài, cho dù hội tụ những phẩm chất tinh túy và tinh thần thông tuệ, Ngài cũng không thể tránh được sầu khổ. Vậy nên ta cần phản ứng khác đi: hiểu thấu về bể khổ.

Thoát ly

Trong Kinh Chuyển Pháp Luân có răn dạy: phải hiểu thấu Chân lý Cao thượng thứ nhất là Khổ Đế – chân lý về sự khổ đau (SN 56:11). Nói cách khác, đừng cố vượt qua sầu khổ, đừng cố thay đổi nó, đừng cố làm cho nó tốt hơn, và đừng cố trốn chạy khỏi nó; mà ta phải nên hiểu nó. Những thời khắc gian khó là cơ hội tuyệt vời để ngồi xuống và đối mặt với sầu khổ, để hiểu rõ nó, và đừng chọn cách dễ dãi là chạy trốn khỏi nó.

Bản chất của loài người là bất cứ khi nào sầu khổ hay gặp khó khăn trắc trở, chúng ta có ngay lối thoát cho mình: xem phim, lướt Internet, đọc sách, tán gẫu, uống trà hay cà phê, hoặc chỉ đơn thuần là đi lang thang. Thực chất chúng ta đang bước ra khỏi cái gì? Chúng ta hòa mình vào những trò vui để làm gì? Đó là phản xạ theo thói quen của chúng ta trước những đau khổ tệ hại, và trước những thứ khiến ta không hài lòng. Nếu bạn thật sự muốn đi đến nơi nào đó, đến tu viện hay bất kỳ nơi nào khác, để trở thành người có trí tuệ và tự do, Đức Phật dạy bạn nên hiểu về sầu khổ.

Khi nghiên cứu tỉ mỉ, bạn sẽ nhận ra rằng tất cả loài người đều phải nếm trải sầu bi. Trong Kệ Therīgāthā(4) có một tích truyện rất nổi tiếng về bà Kisāgotami (Thī 213 – 23). Chuyện kể về phương sách của Đức Thế Tôn nhằm lay chuyển cho bà Kisāgotami thoát khỏi nỗi sầu bi sau cái chết của con trai bà. Nỗi đau khiến bà kiệt quệ. Lời Đức Phật truyền dạy khiến cho bà thấu hiểu rằng ai ai cũng phải chết: cái chết của con trai bà không phải là sự việc duy nhất trong vũ trụ này, mà nó được kết nối với mọi cái chết khác. Đức Phật muốn bà Kisāgotami hiểu về nỗi sầu khổ có tên là chết. Chết là tự nhiên. Chết là một xớ sợi trong vòng Luân Hồi. Chết hiện hữu ở muôn nơi – ta không thể thoát khỏi nó. Do vậy, thay vì cố bôi xóa nỗi đau bằng việc cầu xin cho đứa con sống lại, Đức Phật dạy bà Kisāgotami hiểu tính phổ quát của kiếp nạn này.

Khi ta hiểu, ta không chỉ chấp nhận sự vật hiện tượng, bởi vì nhiêu đó chưa đủ. Nếp suy nghĩ lên gân kiểu như: “Mặc kệ đi, mọi sự trên đời đều phải theo cách thức như vậy mà, cho nên cố gắng làm gì!” không phải là phản ứng đúng. Khi thật sự hiểu kiếp nạn sầu khổ, chúng ta đang nếm trải cái gì, cuộc đời thật sự là cái gì, thì chỉ có duy nhất một phản ứng tự nhiên. Bất kỳ điều gì xảy đến, đừng cố chạy trốn, mà cũng đừng chấp nhận buông xuôi hoàn toàn – đó chính là Tuệ nibbidā.

Tuệ nibbidā còn có nghĩa là giải thoát. Ta quay lưng khỏi điều ta gọi là đời sống. Cố thay đổi sự vật hiện tượng chỉ càng khiến ta dính dáng nhiều hơn với cuộc đời; trong khi chấp nhận sự đời cũng giữ ta liên quan. Giải thoát là phản ứng đúng. Giải thoát tức là bạn để mặc sự vật hiện tượng đó, bạn không quan tâm hay lo lắng về chúng. Bạn chỉ ngồi đó, và bạn không tham gia vào sự việc mình đang nếm trải. Bằng cách không dính dáng đến điều mình đang trải qua, bạn đứng lùi xa đời sống. Gần như là phớt lờ nó, kiểu phớt lờ khiến cho sự vật biến mất.

Khi đọc sutta (những lời răn dạy của Đức Phật), bạn biết rằng Đức Phật với lòng trắc ẩn, đã biết cách rút lui khỏi con người (MN 122.6). Đôi lúc con người chúng ta sa vào chuyện trò bởi vì chúng ta chẳng biết làm gì hơn. Tôi không thích cái kiểu ngồi vòng tròn rồi trả lời những thắc mắc hết giờ này sang giờ khác về Chánh Pháp (Dhamma), giáo huấn cốt lõi của đạo Phật, nhất là trong quá trình quy ẩn tu tập hành thiền. Trong bất kể trường hợp nào, chỉ đặt câu hỏi thôi bạn sẽ không thể nhận được câu trả lời xác đáng về Pháp thật sự. Bạn chỉ có câu trả lời đúng nghĩa bằng cách ngồi tĩnh tại và ngừng suy nghĩ, chứ không phải bằng cách thúc ép suy tư. Do vậy, khi ai đó đặt câu hỏi cho tôi, tôi cố trả lời càng nhanh gọn càng tốt. Bằng cách đó, tôi cố giúp mọi người thoát khỏi chuyện trò hỏi - đáp.

Bạn nên buông bỏ những thứ trên đời bằng cách tương tự. Tại sao phải vướng lụy vào những thứ này? Hãy nhìn vào chúng và nhận ra chúng chỉ gây sầu khổ cho bạn; chúng làm bạn mệt mỏi và bực dọc. Thông qua Tuệ chán nản (nibbidā), tầm quan trọng của thế giới vật chất thuộc về các giác quan sẽ mờ dần đi.

“Không phải việc của tôi”

Khi bạn hành thiền, lắng Tâm nhìn cuộc đời, bạn dần nhận ra rằng nó hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát. Bất kể cái gì nằm ngoài tầm kiểm soát thì không phải là việc của bạn. Đó là câu chú tuyệt vời, ngắn gọn tôi áp dụng trong khi hành thiền, và tôi cũng khuyến khích người khác sử dụng câu niệm đấy. Bất kể bạn đang trải nghiệm cái gì, bất kể bạn đang tu tập ở trong thiền viện hay ở bất kỳ nơi nào, hãy nói: “Không phải việc của tôi”. Bất kể điều gì xảy ra với nguồn nước, với chuyện người đến rồi đi, với thức ăn được cho, với thời tiết, hãy cứ nói: “Không phải việc của tôi”. Bạn không việc gì phải lo lắng ai làm gì và nói gì với bạn; đó là việc của họ, Nghiệp (kamma)(5) của họ chẳng liên quan gì đến bạn.

Nếu bạn nhạy cảm với lời nói của người khác và cho phép họ làm tổn thương bạn hoặc bắt nạt bạn, hãy nhớ đến lời Đức Phật răn dạy con trai Rahula (La Hầu La): Hãy như Trái đất (MN 62.13). Chúng sinh tiểu tiện và đại tiện vào Trái đất; họ ói mửa vào Trái đất; họ đốt Trái đất. Chúng sinh xả xuống Trái đất đủ mọi thứ rác rưởi, nhưng Trái đất không bao giờ phàn nàn, mà chỉ đón nhận tất cả. Chúng sinh cũng làm biết bao điều tốt đẹp với Trái đất, họ trồng hoa, trồng vườn, thậm chí họ xây tu viện lên Trái đất, nhưng Trái đất không phản ứng – cho dù có chuyện gì xảy ra với nó chăng nữa.

Vậy, hãy giống như Trái đất. Bất kể người ta nói gì hay làm gì, cứ bất di bất dịch. Nếu người ta tâng bốc bạn hay chỉ trích bạn, đó là việc của họ. Bạn không cần phải bị ảnh hưởng bởi lời nói của người khác, dù là nói tốt hay xấu. Khi bạn có thái độ “Không phải việc của tôi”, nó sẽ không bao giờ làm cho bạn tức giận.

Tương tự như vậy đối với cơn đau thể xác và với bệnh tật. Khi bạn hành thiền, hãy tự nhắc bản thân đấy không phải là việc của bạn; đấy là việc của cơ thể – hãy để cơ thể tự chăm sóc chúng. Suy nghĩ như thế có uy lực rất mạnh mẽ, giữ cho cơ thể khỏe mạnh. Thật lạ là ta càng lo lắng cho cơ thể thì nó càng rệu tệ đi. Nếu bạn thoát ly khỏi cơ thể – ngồi tĩnh lặng, cứ cho phép cơ thể biến mất – thì nó có khuynh hướng tự chữa lành. Thông thường, khi ta cố kiểm soát và tổ chức sắp xếp mọi thứ thì chúng chỉ có tệ đi mà thôi. Với cơ thể ta cũng vậy, đôi khi bạn cứ bỏ mặc nó và thư giãn, cơ thể bạn sẽ trở nên khoan khoái, thoải mái và tự chữa lành. Vì vậy, hãy buông nó ra và quên nó đi.

Tôi biết nhiều vị chân tu có thể khiến cho bệnh tật biến mất qua uy lực của hành thiền. Lần đầu tiên tôi chứng kiến điều đó là với Ajahn Tate. Đó là lần đầu tiên tôi tới Thái Lan năm 1974, thầy nằm viện do bệnh ung thư không thể chữa khỏi. Các bác sĩ đã tận tình cứu chữa bằng những phương tiện tốt nhất, nhưng đều vô vọng, vì vậy họ gửi thầy về lại tu viện chờ chết. Và thầy lìa đời sau… 25 năm. Đó là một ví dụ về những gì xảy ra khi thầy tu “về lại tu viện chờ chết”. Họ trở về và sống lâu. Họ thoát ly mọi thứ – đạt tới Tuệ nibbidā, Tâm dứt bỏ. Khi Tâm đã nhận đủ, nó thậm chí không muốn nhìn vào vạn vật nữa, và ta thấy vạn vật biến dần đi.

Bạn sẽ đọc được về tiến trình này trong những lời răn dạy của Đức Phật. Theo đó, Tuệ nibbidā dẫn tới virāga (sự phai biến), vạn vật biến dần đi. Khi bạn xem cái gì đó “Không phải việc của tôi”, nó sẽ biến dần khỏi thế giới của bạn. Ý thức không nối kết với nó nữa – bạn không thấy, không nghe, không biết về nó. Phương thức vận hành của vạn vật trong vũ trụ giống như sau đây: Bất kể cái gì bạn dính líu, tham dự đều là những thứ bám chặt vào Tâm của bạn – Tâm là nơi ý thức bám rễ để mọc lên. Bạn đang xây những dinh thự tinh thần trong Tâm. Ở cương vị một thiền sư, tôi thấy rõ ràng là chính ta gầy tạo nên thế giới của mình. Nhưng khi buông dứt, ta không còn việc gì ở thế gian nữa, và vì ta không quan tâm tới nó, tất cả mọi thứ sẽ biến mất khỏi ý thức. Khi ta đạt tới Tuệ nibbidā, ta thật sự “không tạo nên” thế gian của mình.

Giải quyết vấn đề gian khổ

Đã bao nhiêu lần bạn phải giải quyết “vấn đề khó khăn”? Bạn sẽ mãi mãi phải cố gắng giải quyết vấn đề cho đến khi bạn lìa đời, không những thế, bạn còn phải lo khắc phục khó khăn trong nhiều kiếp nữa. Thay vì thế, hãy hiểu rằng thế giới này là cuộc chơi của những giác quan. Đó là ngũ uẩn đang thực hiện công việc của chúng, nó chẳng việc gì đến bạn cả. Con người là con người, thế gian là thế gian – quả đúng như vậy.

Đôi lúc ở tu viện chỗ tôi, bạn trông thấy những bầy vẹt mào. Chúng ồn ào kinh khủng. Nhiều người nói họ không thích âm thanh của lũ vẹt mào tí nào, nhưng cho dù họ có thích hay không, chúng vẫn cứ phát ra tiếng ầm ĩ – thế thì tại sao họ không thoát ly khỏi chúng?

Là thiền sư, tôi từng tự nhủ: “Hà cớ gì để tiếng ồn ã kia gây xáo trộn cho mình?”. Cho dù là tiếng chim bên ngoài, tiếng ai đó đang ho, hay tiếng đóng sầm cánh cửa ở hành lang, tại sao mình phải nghe chúng? Tại sao mình không làm giống như đôi mắt của mình – khép mí lại – tức là “đậy” đôi tai mình lại? Thông qua việc chiêm nghiệm về âm thanh và hiểu cách vận hành của nó, thì rõ ràng lý do duy nhất tôi nghe thấy nó là bởi vì tôi hướng Tâm ra ngoài để lắng nghe nó. Có một sự kết nối chủ động với thế giới âm thanh. Chính vì thế mà nó gây xáo động cho bạn. Ajahn Chah từng nói: “Không phải âm thanh làm ta bất an mà chính ta đang gây bất an cho âm thanh”. Đó là câu nói thâm diệu, rất có ý nghĩa đối với tôi. Tôi đã sử dụng nó để hiểu bản chất tự nhiên của âm thanh và hiểu tại sao nó gây phiền não.

Khi ai đó rủa bạn là đồ con lợn, là tên ngốc, hay bất kể cái tên ngớ ngẩn nào, bạn không cần phải lắng nghe những lời ấy. Ta nghe thấy nó là vì ta quan tâm chú ý đến nó; ta tự buộc mình vào thế giới âm thanh và tự dán chặt mình vào nó. Nhưng khi nhận ra được rằng âm thanh xuất hiện là theo lẽ tự nhiên của nó, ta đạt tới Tuệ nibbidā. Có âm thanh êm tai, có âm thanh điên loạn. Về tiếng chim, có loài chim kêu thánh thót, có loài chim (như con quạ chẳng hạn) phát ra âm thanh chói tai. Đó không phải là lỗi của con quạ, đó là bản chất tự nhiên của chúng. Tương tự như vậy với tu viện, một số anagārika (thầy tu tập sự) giống như con quạ, một số giống như chim sơn ca; một số thầy tu nói lời chân thiện, một số phun lời quỷ dữ; đó là bản chất của họ, thế thôi. Không việc gì tới ta, vì vậy ta nên thoát ly khỏi họ.

Khi chúng ta thoát ly khỏi vạn vật thông qua Tuệ nibbidā, chúng sẽ biến đi. Bể khổ phai biến khi Nhân gây ra sầu khổ phai biến. Ý thức về thế gian bắt đầu biến đi khi chúng ta không băn khoăn đến việc thay đổi nó. Khi chúng ta buông dứt khỏi vạn vật thông qua Tuệ nibbidā, chúng ta ly khai khỏi nó và phớt lờ nó. Đó là bởi vì Tuệ nibbidā xuất phát từ việc nhìn nhận thế giới đúng như bản chất thật của nó. Như thế, chúng ta di chuyển theo hướng khác, ngược với phần còn lại của thế giới.

Những sứ giả của sự thật

Một cách nhìn khác về sự thoát ly thế giới là nhìn nhận nó như là một chuyển động vào Tâm, chốn tĩnh lặng nội tại. Đôi lúc bạn muốn nhìn xem thế giới của gia đình mình, thế giới của bạn bè mình như thế nào, thậm chí bạn muốn xem thế giới Phật giáo ra sao, khi ấy bạn đang thoát ly khỏi Tâm, nghĩa là tự lôi kéo bản thân ra khỏi cõi tĩnh lặng của bạn. Bạn có thể cảm nhận được sự căng níu đó. Con người chúng ta sẽ luôn bị căng níu như thế suốt đời. Vậy bạn đã từng bị níu kéo như thế chưa? Thường thì những người tu rời bỏ tu viện là vì họ bị hấp dẫn bởi chuyện tình cảm khác giới. Liệu điều đó có làm họ hạnh phúc? Cách đây nhiều năm, có một bài báo đăng trên tạp chí Punch nhan đề Lời khuyên dành cho những ai sắp kết hôn. Cả bài báo chiếm trọn hai trang “đắc địa” đều rỗng tuếch, ngoại trừ bốn mẫu tự “ĐỪNG”. Bốn mẫu tự này đủ thể hiện sự thấu hiểu bể khổ của hôn nhân. Đừng nghĩ rằng bạn khác người ta, rằng bạn có thể thoát khỏi sầu khổ bởi bạn đặc biệt hơn hoặc thông thái hơn kẻ khác. Chỉ có thói kiêu ngạo của bản ngã mới nghĩ rằng ta giỏi hơn, ta khôn hơn người khác; rằng ta có thể tránh được những vấn đề khó khăn phức tạp mà những người khác đều phải đối mặt.

Khi còn trẻ, tôi đã từng huyễn hoặc bản thân như vậy. Tôi học cách ngăn không cho khó khăn tóm bắt được mình bằng cách lần mò tới tận cùng tính logic của chúng. Tôi nghĩ: “Sau đó rồi sao? Rồi sao nữa?”, và tôi sẽ không dừng lại cho đến khi tôi có được bức tranh toàn cảnh. Đối với chuyện ảo mộng như tình yêu, hôn nhân và cái kết đẹp đẽ “Họ sống hạnh phúc bên nhau trọn đời”, thì “Rồi sao nữa?” bóc gột hết niềm vui, bởi vì “Sau đó rồi sao?” sẽ chỉ là hư vô. Vô sắc, không còn sự tươi sáng, không còn niềm vui hay hạnh phúc nữa, bởi vì “Sau đó rồi sao?” có thể là bất kỳ cái gì mà bất kỳ ai cũng có thể trải qua. Khi phần vui thú phai tàn và biến mất, bạn quay trở lại nơi bạn bắt đầu. Còn hơn thế, bạn vẫn chưa hiểu được bất kỳ điều gì về cuộc sống. Bạn đang cố đi qua cuộc đời, cố giành giật vài khoảnh khắc hạnh phúc và vui sướng. Rốt cuộc, bạn đang rướn người lấy đà nhảy về phía tuổi già và chia lìa những người mình yêu thương. Thế, điểm mấu chốt ở đây là gì? Đó là hãy đi theo lộ trình Tuệ nibbidā, tức là hành thiền tu tập trí tuệ thực sự. Bạn đã nếm đủ sầu khổ, điều đó có nghĩa là bạn đã tích đủ cơ sở dữ liệu xử lý. Hãy suy ngẫm về bể khổ khi bạn gặp gian khó và hãy rèn luyện Tuệ nibbidā.

Trong khóa tu tập hành thiền, sẽ có nhiều lúc bạn chán nản. Nếu bạn cảm thấy nhức chân cẳng, hoặc bạn ngồi đó mà chẳng biết làm gì – bạn không muốn tọa thiền, không muốn đi thiền, không muốn đọc sách, bạn chán rũ rượi – đó là lúc bạn cần tìm hiểu về sự chán nản. Nếu bạn tìm hiểu sự sầu khổ, bạn sẽ không tận dụng hết từng khoảnh khắc của khóa thiền, bạn cũng không khám phá và trau dồi tính cách cá nhân của bạn. Việc rèn Tâm không nằm ở sự kiểm soát vạn vật, mà nằm ở sự thông hiểu chúng. Hãy xem những khó khăn và thất vọng như là các devadӣta, sứ giả sự thật, đến để dạy ta giáo huấn Dhamma. Đại sư Ajahn Chah hay gọi những sứ giả này là Kruba Ajahn – những bậc tôn sư. Những Kruba Ajahn này không sống trong tu viện lớn. Đó là những Kruba Ajahn trong tưởng tượng. Kruba Ajahn thật sự ở trong chính mái nhà của bạn, khi bạn tỉnh giấc lúc sáng sớm nhưng lại mệt đến độ không muốn cất mình ra khỏi giường. Những Kruba Ajahn này sẽ có mặt ngay tại nơi bạn ngồi thiền rất lâu mà chẳng đi được tới đâu. Kruba Ajahn thật sự sẽ hiện hữu trong lúc bạn nhập thiền nhưng lại cứ đắn đo, tự hỏi còn lại bao nhiêu ngày nữa thì hết khóa tu. Khi ai đó không đặt thức ăn thích hợp vào bát của bạn, hoặc khi bạn sắp hành thiền sâu thì một con quạ kêu nháo lên. Tóm lại, bất cứ điều gì khiến bạn thật sự thất vọng hay điên tiết, đó đều là Kruba Ajahn – bậc thầy. Tất cả là hành thiền, lắng nghe, thẩm thấu và hiểu.

Chuyển động về phía hư vô

Khi bạn hiểu bể khổ trên thế gian, bạn sẽ nhìn thế giới như thể nó là một đống rác. Do bởi nó là rác rưởi nên bạn thoát ly khỏi nó. Khi bạn dứt lìa nó, nó dần biến mất – đó là khi virāga (phai biến) diễn ra. Đó là lẽ tự nhiên. Bạn không cần phải làm cho nó biến mất. Không thể thực hiện được điều đó bằng sự lựa chọn, bằng ý chí hay bằng ý nghĩ: “Ồ, tôi muốn tống khứ những người này, con vẹt này, lũ kiến trên đường này, cái lạnh mà tôi đang cảm thấy này”. Bạn không muốn tống khứ bất cứ cái gì cả, bởi lẽ “Nó không phải việc của tôi”. Khi bạn thật sự biết đó không phải là việc của bạn, thì toàn bộ sự vật sẽ tan đi và biến mất. Đây là ý nghĩa thâm sâu của việc đơn giản hóa và từ bỏ của cải, vật sở hữu. Bạn không chỉ từ bỏ vật chất mà còn từ bỏ những thứ thuộc về tinh thần – những thói quen cũ, sự đố kỵ, sự phẫn uất, cách nhìn thủ cựu về những thứ mà bạn nâng niu và khư khư giữ lấy. Bạn vứt bỏ tất cả những thứ khiến bạn gục ngã, những thứ giam hãm, những thứ ràng buộc bạn.

Hầu hết mọi người đều là tù nhân của quá khứ. Họ đánh đồng mình với quá khứ, xem quá khứ là bản thân, là tự ngã (attā). Bởi vì họ tự xem mình là quá khứ, họ nối kết với quá khứ và sầu khổ theo quá khứ. Nhưng họ không cần phải như vậy, bởi vì họ có thể buông bỏ quá khứ. Cánh cửa xà lim trong tù luôn luôn để mở, và bạn có thể bước qua cánh cửa ấy vào bất cứ lúc nào. Đừng nghĩ rằng bạn cần phải xử lý “các vấn đề vướng mắc” trong quá khứ. Bạn hoàn toàn có thể vứt nó đi, thế thôi, buông luôn, và cho phép nó biến mất nếu bạn thật tâm muốn làm vậy.

Vậy nên khi áp dụng dukkha-saññā – nhận thức về bể khổ – hãy tự hỏi xem mấu chốt của sự níu giữ quá khứ là gì. Hãy xem mục đích của việc đó là gì; hiểu rằng như thế là sầu khổ, cho nên hãy dứt bỏ và cho phép nó biến mất. Thậm chí bạn dừng nghĩ về quá khứ luôn. Khi hiểu rằng những thứ đó chỉ là bể khổ, thì hệ quả tự nhiên ắt sẽ là buông bỏ. Càng hiểu sâu về chúng thì chúng càng biến đi. Cuối cùng, chúng không còn là một phần trong hành trang của bạn nữa. Bạn nhìn thế giới bên ngoài và nó biến đi. Bạn ngồi dưới mái nhà của mình, và toàn bộ thế giới biến mất. Bạn hiểu rằng đây chính là đích đến tối thượng của hành thiền – hành thiền là nghệ thuật để cho vạn vật mờ đi, tan đi và biến mất, biến hẳn. Đó là sự chuyển động về hư không.

Một trong những thứ quan trọng nhất phải biến đi để hành thiền cất cánh đó là ý nghĩ – dòng suy nghĩ. Trước tiên, bạn phải hiểu về ý nghĩ. Ý nghĩ đưa bạn đi tới đâu? Bạn sẽ thấy suy nghĩ không phải là việc của bạn. Khi bạn hiểu đúng về ý nghĩ, bạn sẽ không cố gắng điều khiển nó thông qua ý chí, mà bạn sẽ áp Tuệ nibbidā đối với nó. Trong những lời răn dạy của Đức Phật (MN 20.4) có sử dụng hình ảnh ví von suy nghĩ giống như đem tròng xác một con chó chết vào “cổ” Tâm đẹp đẽ của bạn. Một khi đã nhìn ý nghĩ theo cách ấy, bạn liền tự hỏi tại sao bạn lại làm điều này với bản thân mình. Phản xạ tự động của bạn là vứt nó đi tức khắc, nó là xác con chó chết – thối rữa, bẩn thỉu, bốc mùi kinh tởm. Đó là điều xảy ra khi ta hiểu những thứ này. Bạn biết chúng không phải là việc của bạn. Bạn chối bỏ nó. Bạn chuyển động về một hướng khác – chuyển động vào trong Tâm, hơn là chuyển ra ngoài thế giới.

Phản xạ tự động

Tuệ nibbidā chặn đứng āsava (dòng chảy của Tâm). Bạn có thể hình dung về nó như thế này, bạn đang ngồi hành thiền, chẳng làm gì cả, rồi đột nhiên dòng suy nghĩ bắt đầu tuôn ra – suy nghĩ xem mình sẽ làm gì sau khóa tu thiền; suy nghĩ về những bổn phận, hay về những giải pháp cho vấn đề nào đó bạn đang cố giải quyết. Tâm chảy ra từ trung tâm, dòng chảy ấy được gọi là āsava. Tại sao nó chảy ra? Nó chảy ra là bởi vì nó bận lòng với thế gian. Nó chưa trông thấy bể khổ của thế gian, nó chưa hiểu. Khi ta chưa hiểu thế gian bên ngoài, ta nghĩ nó là việc của ta – ta nghĩ rằng nó rất vui; rằng bằng cách nghiên cứu về nó hoặc sắp đặt hết thảy những sự vật hiện tượng trên thế gian, ta sẽ nhận được cái gì đó. Nhưng khi ta thoát ly, tất cả sẽ tan biến, và rồi dòng chảy của Tâm cũng ngưng lại. Ý thức rằng thế gian quan trọng sẽ biến mất, bởi vì ta hiểu nó không phải là việc của ta. Khi thế gian bên ngoài đi mất, quá khứ, tương lai và dòng suy nghĩ cũng biến mất, việc hành thiền sẽ thăng hoa.

Khi bạn thoát lìa khỏi thế giới bên ngoài, hành thiền cứ thế diễn ra. Quan trọng là phải nhận thức rằng bạn không hề làm cho nó xảy ra. Tôi không thích cái kiểu người ta dạy cho nhau phương pháp sử dụng ý chí để quan sát hơi thở. Với tôi, sử dụng năng lực trí tuệ sẽ tốt hơn. Thông qua trí tuệ, bạn thấy rằng thế gian là sầu khổ, rồi bạn thoát đi, bạn đạt tới Tuệ nibbidā. Bạn không thể làm khác đi được, đó là phản xạ tự động. Do vậy, hiểu sầu khổ và thoát ly khỏi nó luôn luôn là căn cứ địa cho bạn quay trở về. Càng thoát ly, dứt bỏ, bạn càng dễ hành thiền hơn. Khi tôi nói dễ hơn, tức là nói hành thiền xảy ra. Thế thôi!

Khi bạn dứt khỏi thế gian, bạn đi hướng vào bên trong, bạn đang ở ngay trong khoảnh khắc hiện tại. Có thể bạn đang nhìn hơi thở của mình, nhưng khi hiểu về hơi thở, thậm chí bạn còn thoát ly cả hơi thở. Bạn không cố kiểm soát hơi thở hoặc lái cho nó khác đi. Hơi thở tuôn vào rồi tuôn ra, tất cả tự động diễn ra – bạn nhận ra hít thở không phải là việc của mình. Bạn đưa Tuệ nibbidā về phía hơi thở, và nó biến tan. Theo Đức Phật, quan sát hơi thở là thuộc về thân thiền – lắng lọc cơ thể (MN 118.24). Vì vậy, khi bạn thấy hơi thở chẳng liên quan gì đến mình và bạn thoát ly khỏi nó, thì nó chỉ là tàn dư của thể xác và năm giác quan, rồi nó cũng mờ tan và dần biến mất. Đó là khi bạn bắt đầu đi hướng vào cõi Tâm thẳm sâu. Do cơ thể và năm giác quan cuối cùng cũng ra đi, việc hành thiền của bạn đạt đến cấp độ sâu, từ đó đưa bạn trải nghiệm trạng thái an lạc.

Khi bạn dứt lìa khỏi sầu khổ – không cố gắng kiểm soát thế gian, và không cố nán lại nơi ấy, cứ buông bỏ mọi thứ – bạn nhận được điều bạn thật sự muốn ngay từ đầu: an bình và hạnh phúc. Tại sao loài người phải tranh đấu với thế gian để theo đuổi hạnh phúc? Hay bạn nghĩ rằng hãy cứ đi cùng với thế gian là nó sẽ làm cho bạn hạnh phúc? Không đâu. Ràng buộc với thế gian chỉ khiến bạn chán chường và buồn khổ, đôi khi trầm cảm. Bạn thấy nó thật tẻ nhạt. Duy chỉ con đường dẫn tới Tuệ nibbidā mới đưa bạn tới hạnh phúc từ Tâm đúng nghĩa. Bạn tĩnh tại và an lạc bởi vì quá nhiều thứ đã biến mất.

Chỉ khi đạt đến cấp độ ấy, bạn mới cảm nhận đầy đủ rằng chung quy tất cả chỉ là bể khổ. Năm giác quan đang chịu sầu đau, thế gian này đang chịu sầu đau. Lời nói và suy nghĩ đang chịu sầu đau. Những tu viện đang chịu sầu đau. Mưa đang chịu sầu đau. Việc nghiên cứu hay bất kể việc gì bạn đang làm đều đang chịu sầu đau. Thức ăn đang chịu sầu đau. Vạn vật đang chịu sầu đau. Khi bạn thoát ly và hướng vào sâu bên trong, bạn tới được nơi mà Ma Vương (Māra) không thể tiếp cận, bạn sẽ tự do thoát khỏi bể khổ một cách vi diệu. Đây là phương pháp tiếp cận những trạng thái hành thiền ở cấp độ sâu, gọi là Định jhāna: bạn dứt lìa thế gian, bạn không bị buộc vào Định jhāna. Khi bạn thoát ly khỏi suy nghĩ, thoát ly thế gian và thể xác, các trạng thái Định jhāna cứ thế diễn ra. Lại thêm một phản xạ tự động nữa và nó xảy ra khi bạn hiểu rằng tất tật mọi thứ đều không phải là việc của bạn.

Tâm an định

Bấy lâu nay tôi thường cố gắng giữ gìn cho thân thể mình được mạnh khỏe lâu dài bằng cách chăm chỉ tắm rửa, chăm sóc và để cho nó nghỉ ngơi. Nhưng khi hành thiền, tôi nói: “Thân thể không phải việc của tôi”. Khi ấy tôi chỉ việc ngồi đó, thoát ly hoàn toàn. Mặc dù tôi là trưởng tu viện, nhưng tôi vẫn thoát ly khỏi tu viện của mình, cũng như mọi thứ khác. Khi tôi hướng vào bên trong cái hang của mình, tôi không làm gì cả. Tôi không phải là thể xác này, không phải là quá khứ hay tương lai của tôi. Tôi chỉ ngồi đó, cho phép mọi thứ tan đi, biến mất và đi luôn.

Thoát ly kiểu như thế – trải nghiệm Tuệ nibbidā – sẽ dẫn tới virāga. Virāga, đến lượt nó, sẽ dẫn tới upasama (Tâm định, tĩnh tại, an lạc). Thật là vi diệu khi ta được nếm trải cảm giác Tâm an định thật sự – toàn bộ thế gian ngoài kia biến mất, và ta hoàn toàn tĩnh tại. Tâm bất di bất dịch và không thể kết nối với thể xác, với quá khứ hay tương lai. Nó bất di bất dịch cả về thời gian; và nó bất di bất dịch cả trong không gian. Thế rồi trạng thái Tâm định cho phép tất cả mọi thứ mờ tan đi và biến mất. Vạn vật chỉ tồn tại khi có sự chuyển động hoặc bị tác động, bởi vì các giác quan chỉ biết đến sự vật khi chúng chuyển động. Để cho các giác quan nhận biết được bất cứ thứ gì, chúng cần sự so sánh, chúng cần sự tương phản. Khi các giác quan tĩnh tại, sự nhất Tâm khiến cho mọi thứ mờ đi – thế gian bên ngoài tan ra, tu viện mờ đi, âm thanh mờ đi, ký ức mờ đi, quá khứ và tương lai mờ đi. Ý nghĩ mờ đi, và thể xác biến mất.

Khi thể xác biến mất và bạn trải nghiệm Tâm định sâu tận bên trong, đó chính là trạng thái jhāna. Trong trạng thái jhāna, bạn thoát ly khỏi thế giới bên ngoài – năm giác quan biến mất. Đôi khi trạng thái này được gọi là “tách rời” khỏi thế giới của năm giác quan. Trong thực tế nó còn hơn cả tách rời, mà là thoát ly hoàn toàn, cắt đứt hoàn toàn với thế gian. Lúc này bạn đã hiểu ý nghĩa của sự biến mất – vạn vật không còn ở đó nữa. Lúc này bạn đã biết sự buông bỏ thật sự là gì. Bạn từ bỏ thế giới. Việc đó mang lại cảm giác thật là vui sướng và an bình. Tôi nói đến từ bỏ, nhưng thật ra bạn không làm gì cả. Sự thoát ly đã diễn ra thông qua việc hiểu thế gian, bởi vì hệ quả tất yếu của sự hiểu là Tuệ nibbidā. Vạn vật mờ đi, bạn đạt đến trạng thái an bình tiên cảnh. Bạn đạt tới trạng thái Tâm định.

Một khi bạn bắt đầu nếm trải Tâm định, bạn sẽ thấy đó là một trạng thái gây nghiện kinh khủng. Nó phải như thế. Đó là dấu hiệu tốt bởi vì sự mê nghiện trạng thái Tâm định là thứ sẽ điều khiển bạn, hướng bạn đi sâu về cõi nibbāna (Niết Bàn). Đức Phật răn dạy rằng sự kết nối trong hành thiền sâu chỉ có thể dẫn dắt ta đến những giai đoạn giác ngộ và giải thoát (DN 29). Bạn không phải bận tâm hay lo lắng về sự mê nghiện này. Đấy là niềm vui, là hạnh phúc và là con đường tu tập. Đó là tự do. Đó là trạng thái mê nghiện mà sẽ dẫn bạn tới sự tan dần, mất hút dần và biến hẳn. Tuệ nibbidā tăng cao và thúc đẩy bạn thoát ly khỏi thế gian.

Đây là con đường tu tập để trở thành một nhà sư thực thụ, một bhikkhu hoặc bhikkhunī (tỳ khưu hoặc tỳ khưu ni). Giờ thì bạn đã biết lý do tại sao chúng ta đi theo con đường của Đức Phật. Bạn biết được rằng có những Đại Đức đã bước đi trên con đường này như thế nào, họ thoát ly thế gian và cho phép thế gian biến đi ra sao. Họ sung sướng trải qua hết giờ này tới giờ khác một mình – “bản ngã” của họ biến mất thật sự. Họ dịch chuyển càng ngày càng sâu hơn, sâu hơn nữa vào nội tại – không phải vì họ di chuyển thân xác vào trong, mà vì họ thấy bể khổ xung quanh không phải là việc của họ. Họ thoát ly, mọi sự vật hiện tượng mờ đi, tan đi và biến mất.

Mấu chốt là thông hiểu

Để hành thiền, bạn không cần phải gắn Tâm vào hơi thở, không cần phải cố ý rời khỏi quá khứ và tương lai, hay cố dập tắt dòng suy nghĩ. Bạn chỉ cần định Tâm trước bể khổ và hiểu nó ngay bây giờ, thông qua bất kỳ điều gì bạn đang trải nghiệm. Nhờ thông hiểu, bạn sẽ thấy thế gian biến mất. Thế gian trong đó bạn từng tung hoành sẽ mờ đi, không còn quan trọng nữa – bạn sẽ không còn thăm thú vùng đất ấy nữa. Đó là vùng đất của những giác quan, của quá khứ và tương lai, của ái dục và ước mơ – tất cả sẽ mờ tan đi. Sự thể diễn ra không phải do bạn làm cho nó diễn ra, mà bởi vì đây là phản xạ tự nhiên của Tâm khi nó chứng kiến bể khổ. Khi tất cả tan đi, hành thiền diễn ra. Bạn không trở thành thiền sư – hành thiền cứ thế diễn ra thôi. Đó là một con đường, một lộ trình, có những bảng chỉ đường suốt chuyến hành trình, có những cột mốc trên đường đi, dẫn tới hư vô và đoạn tuyệt. Đó là những gì xảy ra khi bạn thoát ly và buông bỏ.

Đức Phật răn dạy chúng sinh phải hiểu thấu bể khổ. Bất kể khi nào bạn nếm trải gian nan, khốn khó; bất kể khi nào bạn đối mặt với thất vọng hay đau đớn thể xác, dằn vặt tinh thần, làm ơn đừng chối bỏ nó mà hãy hiểu thấu nó. Đừng trốn chạy nó. Hãy hành thiền, và hiểu nó thật thấu đáo đến mức nó biến mất, và rồi bạn nhận ra nó không phải là việc của bạn. Khi nó tan biến, sự gắn kết của bạn với thế giới bên ngoài bị cắt đứt, bạn bắt đầu liên lạc với thế giới bên trong. Cuối cùng, bạn cũng buông bỏ cả Tâm luôn, bạn trải nghiệm sự dứt bỏ hoàn toàn, dứt luôn cả Tuệ nibbidā. Có thể bạn sẽ đắc quả vị arahant (A La Hán). Điều đó mới vi diệu làm sao.


(1) Nhân (trong Nhân - Quả): là nguyên nhân, nguồn cơn gây ra mọi sầu khổ trên thế gian.

(2) Cấp độ Thiền Tuệ gồm có 16 Tuệ (16 Tuệ Thiền Minh Sát), trong đó Nibbidā ñāṇa (Tuệ quán chiếu tình trạng chán nản) là Tuệ thứ 8.

(3) Sắc thân tứ đại: thân này được sinh do vô minh của cha mẹ đắm chìm trong sắc dục nên mới giao hợp tạo duyên cho tứ đại (đất, nước, gió, lửa) kết hợp lại cùng với các từ trường của Nhân - Quả tạo thành thân ngũ uẩn.

(4) Kệ dành cho người thiện nữ, một trong 15 tập của Bộ Tiểu A-Hàm.

(5) Hành động có tác ý.