Dora đặt mấy cái túi xuống và nhìn người phụ nữ đang vẫy tay với cô bên kia mặt nước. Theo hướng dẫn, cô đã bắt taxi từ nhà ga của cái thị trấn xinh xắn bên bờ sông Thames này và được thả xuống ở cổng bến thuyền. Rồi cô gọi điện thông báo mình đã tới. Bà chủ nhà mới của cô sẽ đón cô và dẫn cô vào trong.
Cô vẫn nhận ra bà ấy, dĩ nhiên, nhưng mẹ người bạn thân nhất của cô đã thay đổi đôi chút so với lần cuối cô gặp bà. Bà đang mặc áo sơ mi khoác ngoài dài thòng và quần jeans thụng. Trước kia, bà thường mặc kiểu quần áo mà những phụ nữ tỉnh lẻ như mẹ cô hay mặc: váy, áo lụa, hoặc có thể là một cái áo phông ôm sát người, với áo len casơmia tròng ra ngoài. Tóc bà, vốn được chăm chút gọn gàng vì một tuần đến tiệm làm đầu một lần, bây giờ trông khá bù xù, xơ xác. Tuy nhiên, bà đang mỉm cười ấm áp, và Dora cảm thấy rốt cuộc việc tìm đến bà nương tựa có thể chẳng phải một ý kiến tồi.
“Làm thế nào mà cháu xoay xở được với đống đồ này trên tàu hỏa thế?” Bà Edwards hỏi khi băng qua cây cầu tới chỗ Dora. Bà nhấc mấy cái túi “dùng được nhiều lần” căng phồng những chiếc áo len dài tay. “Và tại sao cháu lại cần chỗ áo len này? Đang là tháng Năm mà!”
“Mẹ cháu nói ở trên thuyền lúc nào cũng lạnh,” Dora giải thích với vẻ áy náy. “Và những người đi cùng chuyến tàu đã giúp đỡ cháu nhiều,” cô nói tiếp, nhớ lại sự tốt bụng của họ đã gần như khiến cô òa khóc thế nào. Cô rất mong manh, điều nhỏ nhặt nhất cũng có thể khiến cô xúc động.
“Cô thực sự nghĩ rằng, nhìn chung thiên hạ vẫn tốt bụng hơn những gì người ta đồn thổi,” bà Edwards nói, lịch sự lờ đi lời nhận xét về cái lạnh và những con thuyền. “Giờ thì theo cô.”
Dora đeo ba lô lên lưng và đi theo bà trên con đường dẫn đến một cái cổng thép cao. Bà Edwards rướn người về đằng trước và chạm vào một tấm kim loại. Cánh cửa kêu bíp bíp và bà đẩy nó ra.
“Cô cất chìa khóa từ trong áo lót,” bà giải thích. “Tay cô lúc nào cũng bận xách thứ gì đó. Cô sẽ đưa cháu một chìa riêng, để cháu có thể ra vào tùy ý.” Bà liếc nhìn Dora. “Được không?”
Dora gật đầu và theo bà Edwards xuôi theo lối đi bộ dẫn đến dãy cầu phao. Mỗi chiếc cầu phao đều cột một con thuyền. Mặc dù rất muốn nhìn chúng, Dora vẫn mừng vì bà Edwards không dừng lại – ba lô của cô quá nặng. Họ đã đi qua khoảng bốn chiếc thuyền, chẳng chiếc nào giống chiếc nào, trước khi bà Edwards dừng lại cạnh một chiếc thuyền lớn sơn màu xanh lá cây đậm.
“Đây là chiếc Ba chị em. Ban đầu nó có một cái tên Hà Lan, nhưng chẳng ai phát âm được, vì thế Michael, chủ sở hữu của nó, đã dịch tên nó ra như vậy. Đó là một cái tên phổ biến dành cho những con thuyền Hà Lan.”
Bà Edwards quẳng mấy cái túi lên thuyền rồi nhảy phốc qua mạn thuyền với sự lanh lẹ không ngờ. Dora nghĩ mẹ cô sẽ phải cố hết sức mới làm được việc đó, nhưng rồi nhớ lại rằng mẹ cô đã luôn phải nỗ lực trong mọi việc, đó là một phần lý do tại sao cô ở đây.
Bà Edwards quay lại, chìa tay cho Dora. “Đưa cô mấy thứ đó, rồi nếu cháu đặt chân ở kia, cháu có thể lên thuyền khá dễ dàng. Chỉ cần luyện tập một chút thì cháu sẽ nhảy lên nhảy xuống con thuyền này như một con cừu non thôi.”
“Cháu không chắc lắm ạ,” Dora nói, vụng về trèo lên thuyền. Cô theo bà Edwards đi lên bậc thang kim loại và đi qua một cái cửa.
“Đây là buồng lái, hiển nhiên rồi,” bà Edwards nói, chỉ vào cái bánh lái khổng lồ. “Nhưng đồng thời cũng là một cái nhà kính.” Giữa một hàng chậu cây cà chua và phong lữ, Dora nhận thấy có cả những chậu húng quế và mùi tây. “Tất cả bọn chúng sẽ phải bị chuyển đi nếu chúng ta đi đâu đó, nhưng mà, ơn Chúa, chúng ta sẽ không đi đâu cả.”
“Ở đây có tầm nhìn đẹp quá,” Dora nói, nhìn quanh. “Và, có lẽ, nhiều ánh nắng mặt trời.”
“Đó là một chỗ tuyệt vời để ngồi đấy. Bình thường chẳng có nhiều thuyền bè ở đây đâu, nhưng hiện đang có nhiều du khách, vì cuộc tụ hội. Nó bắt đầu vào ngày mai.”
“Ồ, vậy ra cháu đến không đúng lúc ạ?”
“Không hề! Cô rất mừng khi có chút ủng hộ tinh thần.”
“Nghĩa là cuộc tụ hội này không vui sao ạ?” Dora hỏi. Cô không chắc cuộc tụ hội bao gồm những gì nhưng cô quyết định cứ làm theo bất cứ điều gì mà Jo – bà Edwards – gợi ý. Lúc này cô vẫn chưa muốn phải tự mình quyết định điều gì cả.
“Trong chừng mực nào đó.” Bà Edwards thận trọng hơn. “Nhưng vào Chủ nhật có một cuộc triển lãm tàu thuyền, nghĩa là cháu phải để cho bất cứ ai vào tham quan con thuyền của cháu nếu họ muốn.” Bà có vẻ băn khoăn. “Cô thấy thật khủng khiếp khi nghĩ đến cảnh những người lạ đi lang thang quanh tổ ấm của cô! Cô sẽ phải dọn dẹp rất nhiều.”
Dora lờ mờ nhớ lại rằng mẹ cô bạn Karen của cô ít quan tâm đến sự ngăn nắp hơn mẹ cô nhiều. Bà luôn thoải mái để họ bày bừa trong bếp, thử nghiệm các công thức cho món kẹo bơ cứng, kẹo mềm và, sau này, bánh kếp. “Ôi, dĩ nhiên là cháu sẽ giúp cô.”
“Đừng nghĩ đến chuyện đó vội. Xuống đây và uống một ly vang đã nào. Cô biết bây giờ mới có năm rưỡi, nhưng với cô mà nói, mặt trời đã quá con sào,” bà Edwards nói.
“Thế có nghĩa là gì ạ?”
“Cô không rõ lắm, nhưng cô biết nó có nghĩa là cháu có thể uống rượu. Cô nghĩ khi cháu đã trải qua một hành trình dài và một khoảng thời gian không được dễ chịu lắm, cháu xứng đáng được uống một ly. Và cô phải giữ cháu bầu bạn bên cạnh.” Bà cười và Dora nghĩ bà quả là một phụ nữ xinh đẹp. Dĩ nhiên bà đã ở tuổi trung niên, nhưng vẫn còn khá hấp dẫn.
Cô mỉm cười đáp lại và theo bà xuống một dãy bậc thang gỗ.
Khi cô bạn thân Karen của Dora gọi điện từ Canada và nói, “Cậu hãy đến ở với mẹ tớ trên chiếc thuyền của bà,” Dora đã tỏ ra dè dặt.
“Bà sẽ không muốn tớ tự tiện đến ở đâu. Bà đã có một khoảng thời gian khủng khiếp rồi!”
“Tớ sẽ nói với bà. Hẳn là bà biết chuyện gì đã xảy ra với cậu, bà đã được mời dự đám cưới mà. Nhưng bà sẽ rất vui khi có cậu. Bà cần cậu bên cạnh. Dù bà có nói gì, bà hẳn đang cô đơn, và cậu có thể giúp bà thôi trở nên quá lập dị.”
Dora chẳng hách dịch như Karen và cũng không có ý định cố gắng đưa bà Edwards quay trở lại con đường truyền thống, nhưng vì cô thực sự cần một nơi nào đó để đi, cuối cùng cô đã đồng ý. “Là một người bị xã hội bỏ rơi, tớ không có nhiều lựa chọn,” cô nói.
“Cậu không phải là người bị xã hội bỏ rơi! Cậu chỉ hết yêu một anh chàng khá nhàm chán và không muốn kết hôn với anh ta nữa. Người ta vẫn làm thế mà. Nó chẳng phải chuyện gì to tát.”
Dora lắp bắp bày tỏ sự hoài nghi. “Sao lại không to tát cơ chứ! Chúng tớ đã lên kế hoạch cho đám cưới này khoảng năm năm rồi.”
“Đừng nói với tớ là hồi cậu mười bảy tuổi đấy nhá, Chúa ơi! Cậu chỉ mới gặp John năm cậu mười bảy.”
“Có vẻ thế. Tớ đã bắt gặp mẹ tớ đọc tạp chí dành cho cô dâu ngay sau khi bố mẹ tớ gặp bố mẹ John.”
Karen thở dài.
“ Và chẳng có một người nào trong làng lại không phải là bạn thân hay có liên quan đến John hoặc tớ!” Dora rùng mình khi nghĩ lại tất cả những ánh mắt dị nghị và những lời bình luận thẳng thừng mà cô đã bỏ lại đằng sau. “Và vì họ đều nói tớ đã làm trái tim John tan nát, và có lẽ tớ đã làm thế thật, điều đó khiến tớ trở thành một gã cô độc.”
“Cô nàng cô độc chứ,” Karen nói.
“Gì cũng được!”
“Cậu hãy đến chỗ mẹ tớ. Cậu có thể trông chừng bà và bà sẽ chăm sóc cậu. Bà thích chăm sóc người khác mà.”
“Có thể bà thích sự tự do của bà,” Dora chỉ ra.
“Tự do là thứ cậu lựa chọn để có. Mẹ tớ bị đá vì một người phụ nữ trẻ hơn. Bà sẽ cảm thấy rất khủng khiếp.” Sự phẫn nộ của Karen hiển hiện thấy rõ qua hàng nghìn dặm truyền âm. “Tớ biết bố tớ sẽ không bỏ bà nếu tớ vẫn ở bên cạnh họ. Ông ấy chỉ đợi cho đến khi tớ đi vắng. Khốn kiếp!”
Dora chặc lưỡi. “Karen! Cậu không được nói bố cậu như thế!”
“Nhưng Dora, cậu sẽ cảm thấy thế nào về bố cậu nếu ông ấy bỏ mẹ cậu sau gần ba mươi năm chung sống?”
Dora ngẫm nghĩ. “Ừ, thôi được, tớ hiểu ý cậu rồi.”
Lúc này, cô đang nhìn xung quanh trong khi mẹ Karen tìm mấy cái ly và một chai rượu vang. Họ đã bỏ mấy cái túi của cô vào căn buồng được dành cho Dora “bao lâu thì tùy ý cô”. Phòng khách lớn hơn cô tưởng, với một đầu là khu vực dành để ngồi, còn đầu bên kia là một căn bếp – hay chính xác hơn phải gọi là chỗ nấu nướng trên tàu thuyền? cô thắc mắc – và khu vực dành cho việc ăn uống. Các bức tường được sơn trắng và trần được ốp gỗ. Có một cái lò sưởi nằm trong góc, gần đó là một chiếc ghế dài bọc nệm và mấy cái ghế bành. Nó rất ấm cúng, nhưng không được ngăn nắp cho lắm.
“Trong cái tủ bếp đằng kia có một gói khoai tây chiên,” bà Edwards nói. “Cháu lấy nó ra hộ cô với? Trong đó có cả một cái bát đấy.”
“Cô muốn cháu dùng bát sứ hay bát gỗ ạ, cô Edwards?”
Bà Edwards nhìn Dora với vẻ hoảng hốt. “Ôi, làm ơn gọi cô là Jo! Bây giờ chẳng ai gọi cô là bà Edwards nữa cả. Cô sẽ cho rằng bà mẹ chồng của cô đã đội mồ sống dậy và xuất hiện ngay bên cạnh cô mất.”
Dora cảm thấy ngượng ngùng. “Vậy là cô đã dùng lại tên từ thời con gái rồi ạ? Cũng chẳng trách được…”
“Ồ không, hoặc ít nhất thì, cô cho rằng cô có thể làm vậy, chỉ có điều mọi người đều gọi cô là Jo. Cháu cũng phải gọi như thế.”
“Vâng, cô Jo. Cô muốn cháu dùng loại bát nào ạ?” Dora bớt ngại ngùng hơn sau khi cô gọi tên thánh của bà Jo. Nó khiến họ có vẻ bình đẳng hơn.
Jo chỉ vào cái bát gỗ, đưa cho Dora một cái ly và ngồi xuống cái ghế dài, tìm chỗ đặt cái ly của bà giữa những đống giấy báo, sách nấu ăn và một cái túi đựng đồ trang điểm. “Cháu hãy đặt khoai tây chiên xuống chỗ nào đó trong khi cô nghĩ xem chúng ta sẽ ăn gì cho bữa tối. Ngày mai có một buổi dạ tiệc. Cô đã mua vé cho cháu.”
“Cô phải để cháu trả tiền vé,” Dora nói, ngồi xuống đối diện với bà chủ nhà mới của cô. “Cô không cần lo rằng cháu sẽ ăn bám cô. Cháu sẽ trả tiền sinh hoạt.”
“Cô sẽ chấp nhận một khoản tiền thuê nhà nho nhỏ,” Jo nói, “bởi vì người ta phải rạch ròi về những vấn đề như thế này, nhưng đợi đến khi nào cháu có việc làm đã.”
“Cháu có tiền tiết kiệm mà,” Dora phản đối. “Nó được dành cho tuần trăng mật.” Rồi cô nhận ra cô đã nói một từ có thể khiến mình bật khóc. Cô thích công việc cũ của mình và không muốn bỏ nó chút nào khi cô phải trốn chạy khỏi ngôi làng.
Có lẽ cảm nhận được cơn rung động sắp vỡ òa của Dora, Jo nói nhanh, “Chúng ta sẽ giải quyết tất cả những chuyện đó sau. Giờ thì hãy uống rượu vang và thư giãn một lát. Chúng ta có thể ra ngoài ăn món cá và khoai tây chiên,” bà nói thêm.
Dora khịt mũi. “Vâng ạ.”
“Khi cô nghĩ về tất cả những bữa ăn tử tế mà cô đã làm cho chồng mình, trong khi thực chất cô chỉ cần ăn trứng bác và salad cũng được, cô chợt nhận ra hôn nhân quả là một sự lãng phí thời gian. Cháu đã rất có lý khi bỏ dở đám cưới của cháu.”
Dora nhấp một ngụm rượu vang để tiễn biệt những giọt nước mắt vẫn đang chực trào ra. “Đáng lẽ cô nên nghe mẹ cháu nói về chuyện này. Cháu cứ như là một ả đàn bà hư hỏng đã bỏ rơi sáu đứa con đang chết đói chết khát để trở thành một mụ chủ chứa vậy.”
Jo thở dài. “Có lẽ vì họ đã dồn nhiều tâm sức để chuẩn bị cho đám cưới, thế rồi việc cháu hủy bỏ nó khiến mọi chuyện thật tồi tệ.”
“Cháu đã đề nghị tự làm mọi thứ, nhưng mẹ cháu cứ vơ hết việc vào mình.”
Mẹ Dora không tin rằng cô có thể làm một việc người lớn như tổ chức một đám cưới, dù cô cảm thấy mình đã hoàn toàn trưởng thành đủ để lấy chồng, cho dù cô mới hai mươi hai.
“Bà ấy là một phụ nữ rất giỏi giang.”
“Ưm,” Dora lẩm bẩm vào ly rượu vang.
“Nhưng cháu sẽ mắc sai lầm nếu cứ tiến hành đám cưới chỉ để giữ thể diện trong khi cháu cảm thấy nó không ổn.”
“Cháu cũng nghĩ thế đấy, nhưng mẹ cháu không đồng ý. Bà nói bà sẽ chẳng thể ngẩng mặt nhìn ai trong làng được nữa, và thậm chí còn không cho cháu gửi trả quà cưới! Bà giận đến mức chỉ muốn cháu biến đi cho khuất mắt và tự mình làm lấy chuyện đó.”
“Nếu Karen ở đây, cháu có thể đến chỗ nó,” Jo nói, “nhưng vì nó không ở đây, nó rất có lý khi khuyên cháu đến chỗ cô.”
“Vâng ạ.” Dora lại nhấp một ngụm rượu. Không hiểu sao cô cảm thấy khá hơn nhiều khi ở đây với Jo.
“Thật ra, cả hai ta đều đang trốn chạy,” Jo nói, tư lự. “Cô trốn chạy khỏi sự tan vỡ của một cuộc hôn nhân, còn cháu trốn chạy khỏi một đám cưới.”
“Cô có thấy đau khổ khi chồng cô rời bỏ cô không ạ? Ôi, cháu xin lỗi!” Dora nói. “Câu hỏi đó nghe thật ngớ ngẩn. Dĩ nhiên là nó quá ngớ ngẩn! Cháu chỉ đang nghĩ không biết John cảm thấy thế nào.”
“Cậu ta không thể có cảm giác hoàn toàn giống cô,” Jo nói. “Ý cô là, cậu ta mới hai mươi mấy và còn có cả cuộc đời trước mắt. Cậu ta chắc chắn sẽ tìm thấy ai đó khác. Còn cô thì đã năm mươi rồi, sẽ chẳng còn ai muốn cô nữa.”
“Ôi, cháu chắc chắn điều đó không đúng…”
Jo bật cười. “Không sao! Cô sẽ không cần ai khác, không phải bây giờ. Cô đã dành bao năm tháng trong cuộc đời mình để tận tụy với chồng con – thế nhưng cô có được nhận một huân chương cống hiến nào không? Không hề. Cô bị đá vì một ả đàn bà trẻ hơn. Chuyện thường ấy mà! Ông ta có thể lịch sự tuyên bố bỏ cô vì một lý do ít nhục nhã hơn. Nhưng không.” Bà cau mày. “Ông ta đã cả gan nói, ’Nếu bà gặp cô ấy, bà sẽ hiểu. Cô ấy giống hệt bà hồi còn trẻ.’”
Dora xuýt xoa khi nghe được điều này. “Ôi Chúa ơi!”
“Như thể ông ta đã lợi dụng cô hết mức và cần một con người mới của cô.”
“Nếu là cháu thì cháu đã xé xác ông ta ra!” Dora phẫn nộ.
“Cô sẽ làm thế nếu lúc đó cô có sẵn vũ khí trong tay, nhưng thật may là khoảnh khắc đó đã qua đi.” Jo cười tủm tỉm. “Thực sự thì, mặc dù vẫn còn giận điên lên mỗi lần nghĩ về chuyện đó, cô có khá nhiều niềm vui từ khi chuyển lên con thuyền này. Thật tuyệt vời khi có thể bắt đầu lại từ đầu.”
“Cháu biết Karen nghĩ cô sẽ muốn ở lại căn nhà của cô, tất cả bạn bè của cô đều ở đó mà.”
“Vấn đề là, cô chẳng còn có vai trò gì trong ngôi nhà đó nữa. Philip muốn ngôi nhà và ả Mèo Mả – đó là cách cô và Karen gọi ả ta – có vẻ vui sướng với ý định đó.”
“Chẳng có gì đáng ngạc nhiên! Đó là một ngôi nhà đáng yêu. Cháu có rất nhiều kỷ niệm vui ở đó.” Dora nhớ lại những lần tập trang điểm và thử những kiểu tóc kỳ quặc, và những vở kịch nhỏ mà cô và Karen thường diễn. “Cô còn nhớ bộ phim dài tập mà chúng cháu đã làm bằng máy quay phim không?”
“Pitrevie Drive? Dĩ nhiên rồi! Những cuốn băng vẫn nằm trên gác mái. Hai đứa đúng là cuồng loạn.”
“Hồi đó cháu đã rất vui. Cháu nhớ Karen quá.”
“Cô cũng thế, nhưng cô luôn nhắc nhở mình rằng nó sẽ không đi mãi mãi, nó chỉ đi vài năm thôi.”
“Cháu cá rằng cô ấy đã muốn về khi chồng cô bỏ cô!”
“Dĩ nhiên. Cô đã phải dọa nó rằng cô sẽ không bao giờ nói chuyện với nó nữa nếu nó làm vậy. Cô không thể làm cho sự nghiệp của nó bị rối tung lên như cuộc đời cô.”
“Cô thật mạnh mẽ. Cháu chắc chắn nếu là mẹ cháu thì bà sẽ sụp đổ mất.”
Jo nhấp một ngụm rượu vang. “Cũng có những lúc khó khăn chứ, nhưng bây giờ cô là một phụ nữ độc lập, mạnh mẽ, không có ý định kiếm tìm một mối quan hệ nào nữa.” Bà nhìn Dora. “Cô không muốn cháu không bao giờ có một mối quan hệ tình cảm nào khác, nhưng cháu sẽ sớm nhận ra rằng có một người bạn trai không phải là tất cả.”
Dora cười nhăn nhó. “Ồ, cháu biết chứ. Cháu đã có bạn trai bao nhiêu năm qua! Điều đó chắc chắn không phải là tất cả.”
Jo tủm tỉm cười và nhón lấy vài miếng khoai tây chiên.
“Nhưng tại sao cô không ở lại ngôi nhà? Mọi người sẽ quây quần bên cô, đối tốt với cô, đúng không ạ?” Dora nghĩ về ngôi nhà xây theo phong cách Georgia đáng yêu với khu vườn mà Jo đã chăm sóc rất đẹp. Chuyển lên một con thuyền chắc hẳn đã khiến bà có cảm giác tuột dốc một chút– hoặc chí ít là cảm giác bị đào thải.
Jo vội vàng trấn an cô. “Đúng vậy, mọi người đã giúp đỡ cô rất nhiều khi cô còn ở đó. Họ liên tục mời cô đến những bữa trưa toàn đàn bà con gái, tìm những người đàn ông độc thân cho cô, nhưng cô không thể chịu được sự thương hại. Khi cô chuyển đến đây, không ai biết gì về cuộc sống trước đây của cô và cô cảm thấy mình có thể bắt đầu là một người khác.” Bà cau mày. “Thật ra, không phải một người khác, mà là con người thật của cô trong suốt thời gian qua, khi cô cứ giả vờ là một phụ nữ tốt bụng tổ chức bán những món đồ cũ để gây quỹ từ thiện và tham gia các ủy ban.”
“Hóa ra cô không thích những điều đó?” Mẹ Dora chẳng yêu thích gì hơn việc ngồi ở đầu một cái bàn đầy người với một ly nước và một bìa kẹp hồ sơ.
“Đôi lúc thôi,” Jo thừa nhận. “Phần nhiều trong số chúng khá nhàm chán.” Bà thở dài. “Giờ thì cô chẳng tham gia ủy ban nào cả. Thật sung sướng!” Rồi bà cắn môi. “Tuy nhiên cô vẫn phải giúp bày biện bàn ghế cho buổi dạ tiệc ngày mai. Cô vẫn chưa quen với việc không tình nguyện làm gì.”
“Và chúng ta phải dọn dẹp cho buổi triển lãm tàu thuyền?”
“Đúng vậy.”
“Cháu khá giỏi trong chuyện dọn dẹp. Mẹ cháu đã bắt cháu trở thành một người gọn gàng.”
“Ha! Vậy là bà ấy may mắn hơn mẹ cô rồi! Mẹ cô cũng cố gắng bắt cô gọn gàng, ngăn nắp, nhưng không thành công. Đó là lý do cô chẳng bao giờ bắt Karen dọn phòng nó.”
Dora hoài nghi tột độ. “Gì cơ, không bao giờ ạ?”
“Ừ, bởi vì phòng nó chẳng bao giờ tồi tệ hơn phòng cô.” Bà lại thở dài. “Cô nghĩ đó có thể là một trong những lý do Philip bỏ cô, mặc dù ông ta không nói ra.”
“Cô có muốn cháu giúp cô không? Cô sẽ không nghĩ cháu đang tỏ ra hống hách chứ?”
Jo đặt bàn tay lên đầu gối cô và cười. “Có một đứa con gái như Karen, chẳng ai có thể được coi là hống hách nữa cả. Dù sao đi nữa, cô rất vui và cảm kích khi được giúp đỡ.”
Dora cũng yêu mến Karen như bà Jo, nhưng vẫn hoàn toàn đồng ý với câu nói của bà. “Chúng ta mở chút nhạc được không cô? Cháu có một cái CD, nó luôn tiếp thêm năng lượng cho cháu. Dĩ nhiên nó khá cũ rồi. Một trong những đĩa nhạc của bố cháu, nhưng cháu rất thích nó.”
Jo đứng dậy, cười. “Vậy thì nó sẽ hợp với cô. Đầu đĩa ở đằng kia.”
Tiếng nhạc rock mạnh mẽ vang lên khiến Jo có hứng thú lau dọn. Bà đã định hoàn tất việc đó trước khi Dora đến, dĩ nhiên, nhưng sau khi dọn xong phòng tắm và phòng ngủ của Dora, bà không còn thời gian cho phòng khách và bếp nữa.
Dora đã vớ được chiếc máy hút bụi hiệu Hoover và đang cắm cúi xử lý sàn phòng khách. Jo đang cố gắng dọn dẹp cái bàn, một nhiệm vụ ít vừa ý hơn nhiều vì nó đòi hỏi phải đưa ra những quyết định. Jo ghét phải ra quyết định. Bà vô thức thò tay vào túi và tìm thấy một dải ruy băng. Bà đã lấy nó từ một kiện khăn lau bát đĩa mà bà mua vì Dora. Bà xếp vuông vắn một chồng báo và tạp chí rồi cột dải ruy băng quanh nó. Sau đó bà đặt nó cạnh bát hoa quả. Bà cân nhắc. Không phải một tuyên ngôn nghệ thuật, nhưng nó thực sự tạo ra cảm giác rằng những tờ báo cần phải được đặt ở đó.
Sống một mình khiến bà càng trở nên bừa bộn hơn trước kia. Khi bà kết hôn, với một người đàn ông gọn gàng, bà đã buộc phải lau dọn một cách đều đặn đến mức nhàm chán. Bây giờ, khi đã được tự do, bà mặc kệ mọi thứ. Bà nhét bát đĩa vào máy rửa bát với tốc độ nhanh như chớp quen thuộc. Tiếng nhạc rock khiến bà muốn nhún nhảy và bà khẽ lắc lư khi lau chùi kệ bếp, nhưng nếu hành động quá đà, bà có thể khiến Dora lo rằng con bé đang sống với một người điên. Tệ hơn, con bé có thể báo lại với Karen rằng mẹ nó cuối cùng đã bị loạn trí.
Bà nhúng khăn vào dung dịch tẩy rửa rồi lau chùi các ô cửa sổ bị mờ đi vì đọng hơi nước, và sau đó là những mảng mốc màu đen đang có nguy cơ ngày một dày lên. Đây không phải thuyền của bà, bà chỉ thuê nó, nhưng nó là tổ ấm của bà. Khi Michael, một người bạn đại học cũ của Philip, mời bà đến đây ở, bà đã run lên vì sung sướng.
Philip đã kịch liệt phản đối ý định này. “Bà không thể sống trên một con thuyền!” ông ta nói. “Đó là một ý tưởng kỳ quặc! Tại sao không thuê một căn hộ hay một ngôi nhà ở đâu đó?”
Bất cứ ý nghĩ nào cho rằng việc sống trên một con thuyền có thể không phải ý kiến hay đã bị bốc hơi trước những lời nói của ông ta. Sống trong một phiên bản đơn giản, kém cỏi hơn thứ bà từng quen thuộc sẽ là một điều nhục nhã. Tìm một giải pháp hoàn toàn khác là một ý kiến tốt hơn nhiều. “Bởi vì tôi muốn sống trên một con thuyền,” bà đã nói một cách quả quyết, “và ông chẳng thể làm gì để ngăn cản tôi!”
Philip là người khá gia trưởng, và việc nhận ra mình đã mất quyền nói với vợ những gì mình cảm thấy là tốt nhất cho bà khiến ông ta im lặng trong một thoáng. “Vậy thì, đừng có chạy về với tôi nếu có gì không ổn!” cuối cùng ông ta nói.
“Philip, ông đã bỏ tôi vì một ả đàn bà trẻ hơn. Nếu tôi cần gì từ ông vào bất cứ lúc nào, tôi sẽ đòi hỏi nó!” Bà lấy hơi. “Trong gần ba mươi năm chăm sóc ông và Karen, tôi đã từ bỏ sự nghiệp của mình, tôi chăm sóc ngôi nhà và khu vườn, đóng góp cho cộng đồng và chiêu đãi bữa tối cho những người bạn làm ăn nhàm chán của ông. Ông nợ tôi!”
“Bà là một đầu bếp tuyệt vời,” ông ta nói, cố gắng xoa dịu người phụ nữ đã trở nên mạnh mẽ hơn nhiều so với hồi cuộc hôn nhân của họ vẫn còn yên ấm.
“Tôi biết! Nhưng tôi không còn là bà nội trợ tuyệt vời của ông nữa!”
“Ôi, Jo, tôi cũng chẳng dễ chịu gì! Bà biết đấy, tôi thực sự…”
“Vậy ông nghĩ tôi cảm thấy thế nào! Tôi sẽ nói cho ông hay: bị ruồng bỏ. Như một chiếc thảm cũ đã trung thành phục vụ trong nhiều năm trời và sau đó bị quẳng ra bãi rác! Đó là cảm giác của tôi. Và nếu tôi muốn sống trên một chiếc thuyền, tôi sẽ làm vậy.”
Michael rất vui khi chiếc thuyền của ông có người ở. Jo đã đến gặp ông và ông đã dẫn bà tham quan nó.
“Tôi sẽ ra nước ngoài ít nhất là một năm, và những con thuyền không thích bị bỏ mặc không ai chăm sóc. Bà đang giúp tôi đấy.”
“Ông thật tử tế vì đã nghĩ đến tôi,” Jo nói.
“Tôi sẽ không nghĩ đến bà nếu Philip không email cho tôi và kể với tôi chuyện gì đã xảy ra.”
“Thật sao? Kỳ quặc! Tôi không nghĩ hai người gặp nhau thường xuyên đến mức ông ta có thể làm điều đó.”
“Ồ, lâu lắm rồi chúng tôi không gặp nhau, nhưng chúng tôi có địa chỉ email của nhau, và ông ấy đã gửi một email như thế cho tất cả những người trong nhóm ’bạn cũ‘ trong sổ địa chỉ của ông ấy.”
“Ông ta không làm như vậy chứ!”
Michael gật đầu. “Tôi không nghĩ ông ấy tự hào về chuyện đó, Jo ạ. Ông ấy chỉ cảm thấy cần phải thông báo với tất cả mọi người.”
Jo thở dài, cố gắng không cảm thấy bị phản bội một lần nữa. “Ồ, tốt thôi, nó cũng có lợi cho tôi mà. Đây là một con thuyền đẹp, và tôi sẽ thích sống ở đây.” Đặc biệt là khi bà đã khám phá ra bà vẫn có thể email cho Karen và sử dụng điện thoại di động, ít nhất cũng từ một vài chỗ trên thuyền.
“Đây là một cộng đồng rất dễ chịu,” Michael nói. “Mọi người từ mọi tầng lớp xã hội sống ở đây. Vài người ở đây hẳn, vài người chỉ đến vào cuối tuần, nhưng họ là những người tốt. Họ sẽ đến giúp bà nếu bà cần.”
Jo định nói rằng điều đó là không cần thiết, nhưng rồi nhận ra có rất nhiều điều phải học về cuộc sống trên thuyền và có lẽ thi thoảng bà sẽ cần gọi mọi người giúp đỡ, vì vậy bà không nói gì nữa.
Ba tuần sau, bà chuyển lên con thuyền này. Philip đã mang đồ tới cho bà, mặc cảm tội lỗi khiến ông ta cực kỳ nhiệt tình. Sau vài vấn đề khó khăn nho nhỏ ban đầu, khi bà cần giúp đỡ để vận hành máy bơm, bà đã yêu thích nó như cá gặp nước.
“Miễn là tôi không phải đi đâu,” bà nói với Michael khi ông gọi điện kiểm tra xem bà đã ổn định chưa. “Tôi sẽ hoàn toàn ổn!”
Và bây giờ bà có Dora. Nếu tình cảnh của Dora không quá tồi tệ đến thế, bà sẽ nghi ngờ con gái Karen của bà cố tình gài Dora đến ở với bà. Mặc dù không thực sự cô đơn, bà đã quen với việc chăm sóc người khác. Có một cô con gái thay thế đang đau khổ chính là những gì bà cần.
Chẳng mấy chốc, bà sẽ phải nghĩ đến chuyện kiếm sống. Philip đã đưa bà một khoản tiền lớn và bà coi nó như tiền bồi thường. Bà không ngần ngại gì khi nhận nó. Sau này, khi họ ly dị, có lẽ bà sẽ được hưởng ít nhất một phần giá trị của ngôi nhà, nhưng từ giờ cho đến lúc đó, bà không muốn động đến nó. Và mặc dù có Dora bên cạnh sẽ giúp cho cuộc đời bà tập trung hơn, bà vẫn cần một việc gì đó để làm. Từ khi chuyển lên con thuyền này, bà đã dành thời gian rỗi để sơn lại căn buồng trước kia thuộc về người chủ ban đầu của con thuyền, bây giờ là phòng ngủ của bà. Việc đó vất vả đến nỗi bà hầu như chỉ làm khi trên radio phát chương trình gì hay ho. Nó đòi hỏi bà phải trát và đánh giấy nhám rất nhiều và tới gần đây bà mới chuyển sang giai đoạn sơn. Bà coi nó là cái giá phải trả cho việc được ở một nơi khá rẻ. Nhưng cuối cùng, bà biết, bà sẽ phải kiếm một công việc.
Vấn đề là, ở tuổi năm mươi, bà hầu như không thể tìm được việc làm. Trước kia bà không đi học đại học, thay vào đó bà chỉ học một khóa thư ký. Sau đó bà làm những công việc văn phòng. Nhưng những kỹ năng đó không còn có ích với bà nữa. Cho dù bà có học một khóa về máy vi tính, sẽ không ai nhận bà vào làm nếu bà không có kinh nghiệm văn phòng gần đây, và kinh nghiệm văn phòng gần đây nhất của bà, nếu không kể đến tất cả những công việc tình nguyện mà bà đã làm bao năm qua, là làm việc cho một văn phòng cố vấn nghiệp vụ ở London hơn hai mươi lăm năm trước. Bà đã phải năn nỉ xin một chân gõ máy đánh chữ.
Bà có máy vi tính đã được vài năm, và dùng nó để viết các biên bản, lập các thông báo và, gần đây hơn, mua sắm qua Internet. Nhưng bà không thể lập bảng tính, hoặc sử dụng các phần mềm kế toán, hoặc bất cứ thứ gì mà một văn phòng hiện đại yêu cầu.
“Và cho dù có thể,” bà đã nói với Karen, “sẽ chẳng có ai nhận mẹ ở độ tuổi này.”
Con gái bà đã tặc lưỡi nhưng đành chấp nhận sự thật.
Vì vậy bà sẽ phải tự tạo ra việc cho mình và tự làm việc cho chính mình, nhưng bây giờ bà đã có Dora để chăm sóc. Và họ còn phải tham gia một cuộc tụ hội.
“Cô mệt quá,” bà gọi với sang Dora, người đang dùng bàn chải kỳ cọ cặn vữa lỏng quanh những viên gạch ở bếp. “Cháu đói chưa?”
“Ưm. Cháu cũng thấy đói rồi. Cô có muốn cháu đi mua cá tẩm bột và khoai tây chiên không?”
“Chúng ta sẽ cùng đi và cô sẽ chỉ cho cháu các cửa hàng nằm ở đâu. Cháu xứng đáng được nhận một phần thưởng. Cô thực sự biết ơn sự giúp đỡ của cháu, nhất là ngay trong buổi tối đầu tiên cháu ở đây.”
Khi họ đi qua buồng tắm, Jo đột nhiên dừng lại. “Ôi, Dora, cô rất xin lỗi, cô có một lá thư dành cho cháu. Nhìn thấy nơi chúng ta lấy thư cô mới nhớ ra.” Bà lục lọi trong túi xách và đưa một chiếc phong bì cho Dora.
“Chữ của bố cháu,” cô nói.
“Cháu không cần mở nó ngay bây giờ,” Jo nói sau một thoáng, khi bà nhìn thấy vẻ mặt Dora. “Cháu có thể làm thế lúc khác. Đi thôi. Cô gần như có thể ngửi thấy mùi giấm rồi.”
Họ ăn gần hết bữa tối trên đường về nhà. “Suy cho cùng, chúng ta không muốn phải dọn dẹp thêm nữa,” Dora nói, và Jo nhận ra cô rất hợp với bà.