“Nếu Thượng Đế mang người ta yêu thương ra khỏi cuộc đời của ta, cách để họ có thể sống mãi là không bao giờ ngừng yêu thương họ.”
- James O’Barr
Dù biết mình phải chấp nhận quy luật sinh - lão - bệnh - tử của tự nhiên, nhưng việc mất đi người ông mà mình hết mực yêu quý vẫn quá khó khăn đối với tôi. Suốt cuộc đời mình, ông dường như thách thức cả quá trình lão hóa mà ai cũng phải trải qua. Ở tuổi chín mươi, ông vẫn mạnh khỏe, minh mẫn, là người thầy thông thái, và quan trọng hơn hết là người bạn thân thiết nhất của tôi.
Vậy mà chưa đầy năm phút sau khi nói chuyện qua điện thoại với tôi, ông bất ngờ ra đi vì xuất huyết não, để lại khoảng trống không thể khỏa lấp trong trái tim và tâm trí tôi.
Tôi là cháu gái duy nhất của ông, nhưng ông chưa bao giờ dạy hư tôi bằng sự bảo bọc thái quá hay nuông chiều vô lý. Dù vậy, tôi luôn cảm nhận được mối liên hệ đặc biệt với ông. Cách nói chuyện tự tin và dáng đi oai vệ của ông thu hút sự chú ý ở mọi nơi ông xuất hiện. Dù chúng tôi đang dùng bữa tại nhà hàng, xếp hàng chờ tính tiền tại siêu thị hay trong phòng khám bác sĩ, mọi người đều bị hút về phía ông. Thế nên tôi rất thích đi cùng ông. Phương châm sống của ông là chấp nhận điều mình không thể thay đổi và cố gắng cải thiện điều mình có thể thay đổi. Ngay từ bé, tôi đã luôn ngưỡng mộ và xem ông như tấm gương sống tuyệt vời nhất trên đời.
Suốt mấy tuần sau sự ra đi đột ngột của ông, tôi vẫn chưa chấp nhận sự thật. Tôi lấp đầy mỗi ngày bằng nỗi nhớ và lòng tiếc thương, rồi tra tấn bản thân với hàng loạt suy nghĩ về ông suốt cả đêm dài. Tôi không muốn tin rằng ông đã ra đi mãi mãi, sẽ không bao giờ trở về thăm tôi, sẽ không trả lời điện thoại hay cùng ngồi vào bàn ăn với tôi nữa.
Để thoát khỏi nỗi thống khổ về tinh thần, tôi tập thói quen đi bộ. Mục tiêu duy nhất của tôi là làm mình mệt nhoài vào ban ngày để có thể yên giấc vào ban đêm. Ngày nào tôi cũng đi hơn năm cây số đến công viên trong khu phố và ngồi nghỉ trên băng ghế gỗ nhìn ra hồ, sau đó đi bộ về. Ngồi trên băng ghế gỗ đối diện tôi là một ông lão cũng lặng im như tôi vậy. Chúng tôi chưa bao giờ mở lời trò chuyện với nhau, nhưng tôi cảm thấy cả hai đều đang cố tìm kiếm sự bình an trong thinh lặng.
Nhiều tháng trôi qua, cuối cùng những cuộc dạo bộ cũng bắt đầu xoa dịu trái tim tôi. Tôi cảm nhận mình đang dần thay đổi. Ông lão tôi gặp được ở băng ghế trong công viên cũng thường hút tẩu như ông tôi ngày trước. Mùi thuốc lá đưa tôi trở về quãng thời gian hạnh phúc khi xưa. Hồi đó tôi là đứa trẻ thích đọc truyện tranh trên những số báo cuối tuần của ông hoặc chơi xếp hình với các khối gỗ và say sưa kể mấy câu chuyện không đầu không cuối trong khi miệng nhóp nhép trái cây đóng hộp. Hàng loạt ký ức thay nhau ùa về, ngập tràn trong tâm trí tôi - buổi lễ tốt nghiệp, những chuyến du lịch, tiệc sinh nhật và những đợt nghỉ hè.
Đến lúc này, cả tôi lẫn ông lão ở băng ghế đối diện vẫn chưa một lần nói chuyện với nhau, nhưng tôi cảm nhận quá trình chữa lành vết thương trong lòng mình có liên quan đến ông.
Một sáng nọ, tôi thức dậy và nhận ra khối đá nặng trĩu trong tim mình đã không còn. Tôi nhớ lại giấc mơ mình vừa trải qua. Trong giấc mơ ấy có sự hiện diện của ông, và nét mặt của ông trông như thể ông cảm thấy buồn phiền về tôi. Tôi không hiểu hết cái nhìn của ông, nhưng tôi biết mình từng trông thấy ánh nhìn đó trước đây.
Tôi đi bộ đến công viên như thường lệ và ngồi suy ngẫm về giấc mơ của mình. Mùi thuốc lá từ ống tẩu của người bạn đồng hành lớn tuổi bất chợt giúp tôi nhớ lại về lần đầu tiên tôi bắt gặp ánh nhìn kỳ lạ của ông.
Ba mươi lăm năm trước, ông bà tôi có chuyến đi đến Ireland. Tôi không muốn bị bỏ lại ở nhà nên đã phản ứng rất dữ dội. Tôi khóc lóc và kêu gào rằng tôi sẽ rất nhớ ông. Ông rất thất vọng về lối hành xử của tôi và đã trao cho tôi cái nhìn như trong giấc mơ tối qua.
“Tại sao cháu lại xử sự như vậy?”, ông hỏi tôi trước khi rời đi. “Ông chỉ đi xa một thời gian ngắn rồi ông cháu mình sẽ sớm gặp lại nhau mà. Đừng khóc lóc như vậy nữa.”
Tôi bỗng giật mình, nhớ lại cách sống của mình suốt một năm vừa rồi. Tôi như nghe thấy lời quở trách của ông, dẫu lần này có khác đi đôi chút, “Hãy để ông đi. Cuối cùng ông cũng về với Chúa và ông thật sự hạnh phúc vì điều đó. Nhưng ông vẫn chưa yên tâm về cháu. Cháu đang phí hoài thời gian để đau buồn vô ích. Hãy nhớ rằng ông cháu mình rồi sẽ gặp lại nhau”.
Tôi ngồi thừ người trên băng ghế một lúc lâu. Cuối cùng khi hoàng hôn buông xuống, tôi gài nút áo khoác lại và ra về. Khi đó tôi mới nhận ra ông lão ở ghế đối diện đã rời đi từ lúc nào.
Kể từ hôm đó, dù vẫn vô cùng thương nhớ ông, trái tim tôi không còn nặng trĩu như trước nữa. Thậm chí tôi còn có thể mỉm cười khi nhớ lại cách nói chuyện tự tin, dáng đi oai vệ và mấy câu nói dí dỏm của ông. Tôi vẫn giữ thói quen đi bộ đến công viên nhưng chưa bao giờ tôi gặp lại ông lão từng ngồi đối diện mình.
Một hôm, tôi quyết định hỏi mấy chú bảo vệ ở công viên xem họ có biết ông lão không.
Ba người bảo vệ nhìn nhau rồi nhìn tôi bối rối. Cuối cùng một người lên tiếng, “Ý cô là sao? Cả năm qua, ngày nào chúng tôi cũng thấy cô ngồi trên băng ghế quen thuộc, nhưng cô luôn ngồi một mình. Làm gì có ông lão nào ngồi ở ghế đối diện cô”.