Những vấn đề về tim đôi khi được mô tả là những vấn đề về “hệ thống đường ống” - các mảng bám tích tụ trong thành mạch máu, làm tắc nghẽn và chặn chúng lại. Nhưng mạch máu không giống như đường ống; chúng bao gồm các mô sống biết phản ứng, nhạy cảm với tổn thương và chấn thương.
Ví dụ, chúng rất nhạy cảm với các chất gây viêm như AGE’s và ALE’s, là những chất độc hại được hình thành khi các loại thực phẩm khác nhau được nấu ở nhiệt độ cao, như đã được đề cập ở trên.
Các hợp chất này cũng có thể được hình thành trong cơ thể; bệnh nhân tiểu đường tự sản sinh AGE’s do lượng đường trong máu cao và người hút thuốc lá sản sinh ALE’s bên trong do hút thuốc gây ra tình trạng tổn thương oxy hóa cao trong cơ thể.
Dù được nạp vào hay hình thành trong cơ thể, các hợp chất độc hại này sẽ tấn công các lớp niêm mạc mạch máu, gây viêm và tổn thương. Khi đó, các tế bào miễn dịch nhắm vào vị trí bị tổn thương và di chuyển vào thành mạch nơi chúng cố gắng giải quyết tổn thương.
Sau đó, các tế bào miễn dịch thường chết đi, và nếu chế độ ăn uống và trong máu có hàm lượng AGE’s và ALE’s cao, số lượng tế bào miễn dịch ngày càng tăng sẽ tạo ra một lượng cặn tế bào. Đây là nguyên nhân khiến tình trạng viêm nặng thêm, tế bào miễn dịch thâm nhập nhiều hơn và chết đi nhiều hơn. Xác tế bào dần dần tích lại thành mảng xơ vữa độc hại chứa nhiều hợp chất cholesterol bị oxy hóa không phải đến từ cholesterol trong máu mà chủ yếu từ các tế bào miễn dịch đã chết.
Nếu có quá nhiều hợp chất gây viêm và không đủ hợp chất kháng viêm / chống oxy hóa trong chế độ ăn uống, thì tốc độ hình thành mảng xơ vữa sẽ vượt quá khả năng loại bỏ chúng của cơ thể.
Vì thế, mảng xơ vữa tích tụ theo thời gian tạo thành mảng bám bên trong thành động mạch hạn chế lưu lượng máu. Nếu điều này xảy ra trong động mạch cung cấp máu cho tim, nó có thể gây ra cơn đau thắt ngực; nếu nó cung cấp cho não, nó có thể gây ra tình trạng lú lẫn hoặc choáng váng. Nếu các mảng này vỡ ra, như thường xảy ra, có thể gây ra cơn đau tim hoặc đột quỵ. Tình trạng càng trầm trọng hơn do suy giảm vi tuần hoàn trong các mạng mao mạch bên trong cơ tim, một quá trình cực kỳ quan trọng cũng bị tổn thương do viêm mãn tính.
Vấn đề lại một lần nữa trở nên tồi tệ hơn vì chính tình trạng viêm làm tổn thương vi tuần hoàn và thúc đẩy hình thành mảng xơ vữa trong thành động mạch cũng làm cho mạch máu co lại dẫn đến huyết áp tăng dần. Điều này buộc tim phải làm việc nhiều hơn và làm cho các động mạch kém đàn hồi hơn, tạo ra sự kết hợp các tác động làm tăng áp lực, sóng xung kích và gây ra tổn thương trong hệ thống động mạch.
Các thuốc statin không mang lại hiệu quả cao vì chúng tấn công sai mục tiêu, cụ thể là tác động vào mức độ cholesterol trong máu. Cholesterol trong máu là một thước đo sinh học không chính xác, vì một nửa số cơn đau tim xảy ra là ở những người có mức cholesterol bình thường.
Ngày càng có nhiều hoài nghi rằng hiệu quả bảo vệ tương đối nhỏ của các loại thuốc statin (chúng tôi sẽ không đề cập đến tác dụng phụ của chúng ở đây) là do thực tế một số loại này có tác dụng kháng viêm nhẹ cũng như giảm cholesterol.
Vai trò của tình trạng viêm mãn tính không được phát hiện trong bệnh tim có thể giải thích tại sao 50% các cơn đau tim xảy ra ở những bệnh nhân có mức cholesterol bình thường. Mức độ tăng cao của protein phản ứng C gây viêm (CRP), axit amino homocysteine, hemoglobin glycosyl hóa (HbA1c) và tăng độ cứng động mạch được cho là những yếu tố dự báo quan trọng hơn cho các cơn đau tim.