"Hãy tưởng tượng rằng tôi là người sao Hỏa," – giáo sư nói, – "và tôi muốn hiểu về con người. Anh làm cách nào để làm tôi hiểu được rằng anh đang cảm thấy hạnh phúc?"
Thật là một câu hỏi kỳ quặc, xứng đáng với một người sao Hỏa, Hector thầm nghĩ. Có thể giáo sư bị co rút đôi chút khi ở trong cỗ máy không gian thời gian – ngoại trừ chiếc mũi và chỏm tóc – trong cuộc hành trình từ sao Hỏa đến Trái đất. Nhưng Hector cũng biết các vị học giả lỗi lạc thường có cách nhìn nhận sự việc khá kỳ quặc, điều này phát triển năng lực khám phá của họ. Và thế là anh cố trả lời như thể anh đang giải thích với một người sao Hỏa cảm giác hạnh phúc là như thế nào.
"Ồ, tôi có thể nói với họ là tôi cảm thấy tốt, hạnh phúc, vui vẻ, lạc quan, tích cực, sung sức. Rõ ràng nếu giáo sư là người sao Hỏa thì tôi cần phải khiến ông hiểu tất cả những từ này, cần giải thích cho ông hiểu cảm xúc là như thế nào. Nhưng cảm xúc cũng giống như màu sắc vậy, rất khó để giải thích."
"Hoàn toàn đúng như vậy."
"Có thể dễ dàng hơn để giải thích rằng tôi hài lòng với cuộc sống của mình, rằng mọi thứ xảy ra như tôi muốn. Rằng tôi thỏa mãn với công việc của tôi, sức khỏe của tôi, bạn bè của tôi, và những... người yêu của tôi nữa."
"Không tệ, không tệ. Còn gì nữa?" Hector không nghĩ được điều gì khác.
"Anh có từng thấy một con ngựa con trên cánh đồng giữa mùa xuân chưa?" – Giáo sư đột ngột hỏi.
Tất nhiên là Hector đã từng thấy cảnh ấy, nhưng hình ảnh này khiến anh nghĩ tới Ying Li ca hát véo von trong phòng tắm rồi đứng trước mặt anh với nụ cười tràn đầy sức sống.
"Rồi," – Hector trả lời. – "Mới đây tôi có thấy."
"Và sao? Anh biết rằng nó hạnh phúc, phải không? Giờ anh là người sao Hỏa đối với chú ngựa con đó đấy."
Lại thêm một nhận xét kỳ quặc, nhưng Hector đã bắt đầu quen với cách nhìn của giáo sư.
"Ồ, tôi biết. Tôi hiểu nó hạnh phúc bởi nó rên ư ử, nó nhảy nhót và vui chơi… Tôi có thể mỉm cười, hát, hay bật cười, nhảy cẫng lên, hay nhào lộn trước mặt người sao Hỏa và giải thích rằng con người chúng ta vẫn thường làm như vậy mỗi khi hạnh phúc. Hay ít nhất chúng ta làm như vậy khi đang trong tâm trạng thoải mái."
"Đúng vậy," – giáo sư nói, – "anh đã khám phá ra ba phương pháp chính để đo lường hạnh phúc rồi đấy."
Ông giải thích cho Hector rằng phương pháp thứ nhất để đo lường hạnh phúc là hỏi người ta xem họ có tâm trạng thoải mái hay cảm thấy vui vẻ, sung sướng bao nhiêu lần trong ngày hoặc trong tuần. Phương pháp thứ hai là hỏi xem họ có hài lòng trong các khía cạnh khác nhau của cuộc sống hay không. Phương pháp thứ ba là quan sát vẻ mặt của họ qua đoạn phim quay được rồi đo lường chúng bằng những cách thức phức tạp. (Bạn thậm chí có thể phân chia được cả tá kiểu cười, bao gồm kiểu cười khi bạn thật sự hài lòng và kiểu cười chỉ để tỏ ra là mình không giận trong khi bạn thực sự giận dữ).
"Chúng tôi biết rằng mình đang đo lường cùng một thứ bởi nếu chúng tôi thử nghiệm cả ba phương pháp với cùng một nhóm người rồi phân chia họ ra dựa trên điểm số thu được, thì điểm số của họ lúc nào cũng tương đồng ở cả ba phương pháp."
Khi nói ra điều này, trông giáo sư hết sức hài lòng. Ông có vẻ như sắp thực hiện màn nhào lộn đến nơi. Hector nhớ Agnès đã từng nói giáo sư dùng phần lớn cuộc đời mình để chứng minh ba phương pháp đo lường hạnh phúc này thực sự có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
Sự hài lòng của giáo sư khiến Hector nghĩ đến bài học số 10: Hạnh phúc là được làm công việc mà mình thích, và bài học số 13: Hạnh phúc là cảm thấy mình có ích cho người khác. Anh hỏi giáo sư: "Vậy giáo sư làm gì với kết quả đó?".
"Chúng tôi dùng chúng để xin thêm tài trợ cho nghiên cứu. Tôi sẽ sớm có thể bắt đầu thêm một nghiên cứu mới nữa."
Ông bắt đầu nói về một vấn đề khá phức tạp: ông muốn tìm ra liệu hạnh phúc phụ thuộc vào việc mọi chuyện diễn ra suôn sẻ trong cuộc sống của người ta hay nó phụ thuộc chủ yếu vào tính cách của họ. Đây là lý do ông đã mất rất nhiều năm nghiên cứu trên một nhóm các cô gái trẻ (giờ đã trở thành những phụ nữ trưởng thành) bằng cách hàng năm đều đề nghị họ hoàn thành rất nhiều bản trắc nghiệm về niềm hạnh phúc của bản thân cũng như những gì đã xảy đến với họ trong vòng một năm qua. Ông cũng nghiên cứu những hình chụp của họ vào năm hai mươi tuổi.
"Và anh biết sao không?" – Giáo sư hào hứng. – "Có mối liên hệ mật thiết giữa sự chân thành và mạnh mẽ trong nụ cười năm hai mươi tuổi với niềm hạnh phúc năm bốn mươi tuổi."
Hector rất muốn được xem những bức hình của các cô gái trẻ, nhưng giáo sư đã bắt đầu giảng giải về một nghiên cứu khác của ông. Ông và các đồng nghiệp đã theo dõi quá trình phát triển của một cặp sinh đôi từ lúc còn thơ ấu, cố khám phá tại sao họ lại hạnh phúc ngang bằng nhau dù sau đó cuộc sống của họ rất khác biệt. Việc này đòi hỏi rất nhiều tính toán, theo dạng mà Alan vốn rất thích.
Giáo sư giải thích những con tính trên một tấm bảng. Hector bảo ông không cần phải mất thời gian như thế, nhưng giáo sư vẫn khăng khăng.
"Không sao, không sao, rồi anh sẽ thấy, rồi anh sẽ hiểu, phải không?"
Hector tự nhủ ông cũng giống những tay trượt tuyết siêu hạng dẫn bạn lên đồi rồi bảo rằng bạn sẽ rất vui, như chúng ta đã nói ở phần mở đầu phía trước.
Hector cảm thấy hơi mệt nên anh hỏi: "Vậy đã có ai từng thực hiện tính toán những bài học trong danh sách của tôi chưa?".
Giáo sư quay lại, phát cáu: "Có, có. Đó là những gì tôi sắp chỉ ra cho anh thấy đây!".
Ông nhìn lại danh sách của Hector rồi nói với anh, nhờ vào rất nhiều nghiên cứu và tính toán, họ đã chứng minh rằng: nếu bạn so sánh bản thân với những người khác và thấy mình không thiếu thốn, nếu bạn không có vấn đề về tài chính hay sức khỏe, nếu bạn có bạn bè, có một gia đình gắn bó, một công việc bạn thích, nếu bạn có tôn giáo và sống theo tôn giáo của mình, nếu bạn cảm thấy có ích, nếu bạn thỉnh thoảng có đi dạo đây đó, và sống trong một đất nước không thuộc quyền điều hành của những người xấu xa, nơi bạn sẽ nhận được sự quan tâm đầy đủ nếu có chuyện không may nào đó xảy ra, thì cơ hội được hạnh phúc của bạn tăng lên đáng kể.
Hector cảm thấy hài lòng: dựa vào những gì giáo sư nói, anh thực sự có mọi cơ hội hạnh phúc. Thực tế anh chưa có một gia đình đầm ấm cũng như không hoàn toàn có đức tin và không sống tích cực với đức tin của mình. Nhưng mặt khác, anh biết rất nhiều người đã lập gia đình nhưng sống trong cảnh địa ngục với những trận cãi vã và sự buồn chán không ngớt; và trong những bệnh nhân của anh có những người ngoan đạo nhưng lại không hạnh phúc bởi họ luôn nghĩ là mình xấu xa dù thực tế không phải như vậy. Anh nói ra điều này với giáo sư.
"Ừm, tôi không thể làm được gì." – Giáo sư nói. – "Đây là những phát hiện của chúng tôi. Những người độc thân thì ít hạnh phúc hơn những người lập gia đình, và họ cũng gặp nhiều vấn đề về sức khỏe hơn. Và dựa vào số những người có đức tin và thực hành đức tin mà chúng tôi nghiên cứu, tôi thấy họ hạnh phúc hơn những người khác. Tất nhiên tất cả những điều này đều đúng ở mức trung bình, có thể có những trường hợp đặc biệt. Nhưng mà anh xem này, có đầy những nghiên cứu chứng minh!"
Rồi ông cho Hector xem một tủ hồ sơ lớn với những chồng báo xếp chồng lên nhau. Đó là hàng trăm bài viết được những người như giáo sư hoặc Agnès viết ra.
Hector cảm thấy khá tự hào vì chỉ với sự trợ giúp của một quyển sổ tay nhỏ, anh đã khám phá ra những thứ mà những người như giáo sư và Agnès đã phải mất công tiến hành nhiều công trình nghiên cứu phức tạp. Nhưng khoa học là vậy: sẽ không đủ nếu chỉ suy nghĩ không thôi, mà bạn phải chứng minh nó đúng. Nếu không như vậy thì người ta sẽ nghĩ và nói tất cả những gì mình thích. Trong trường hợp đó là phát ngôn của những người nổi tiếng thì sẽ có rất nhiều người nghe theo. (Hector nhớ lại rằng có một số người như vậy trong ngành tâm thần học, những người chỉ biết nghĩ, và đặc biệt là nói, nhưng lại không thích quá trình chứng minh. Kết quả là họ nói ra rất nhiều những điều ngớ ngẩn).
"Giờ thì tôi sẽ cho anh thấy một thứ rất thú vị." – Giáo sư nói.
Ông dẫn Hector xuống tầng hầm và bước vào một căn phòng lát gạch to lớn. Ở giữa phòng là một chiếc máy khổng lồ trông có vẻ rất phức tạp và một chiếc ghế bành mắc vào bên dưới một chiếc máy to đang kêu o e. Hector tự nhủ chắc là đây rồi, chiếc máy không gian thời gian của giáo sư, và hẳn là ông đang định đưa anh lên sao Hỏa.