Trong số những thảm kịch lớn nhất của đời người có những cuộc đời lãng phí của kẻ thất bại – kẻ sau khi đã đạt được thành công thì đánh mất khao khát cố gắng lần nữa.
FREDERICK VAN RENSSELAER DAY
Câu chuyện phép màu (The Magic Story) lần đầu tiên xuất hiện trên số báo phát hành tháng Mười hai năm 1900, của tạp chí Success Magazine. Ngay lập tức nó đã tạo ra một cơn chấn động và sau nhiều yêu cầu khẩn cấp tái bản, in dưới dạng sách, một phiên bản sách khổ nhỏ màu xám bạc đã được in.
Cuốn sách chia làm hai phần, Phần Một kể về câu chuyện của một người họa sĩ thất thế tên Sturtevant, cuộc đời đột nhiên thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp sau khi anh mua một cuốn sách nhàu nát với giá ba xu và tìm thấy bên trong “một câu chuyện phép màu” do một tác giả vô danh viết. Anh kể lại câu chuyện cho nhiều người bạn của mình, thấy tất cả họ đều thu được nhiều lợi ích từ câu chuyện này, Sturtevant cho người bạn chưa bao giờ nghe anh kể câu chuyện ấy tới căn hộ của mình để có thể tự nhiên đọc.
Người bạn đó kể lại rằng,
Tôi đã rất nhanh chóng tìm được cuốn sách. Đó là một cuốn sách lạ lùng, được đóng bằng tay, bọc bìa da sống và buộc bằng những sợi dây da đúng như Sturtevant miêu tả. Những trang giấy là sự kết hợp kỳ quặc của những tờ giấy vàng, giấy da, và giấy làm bằng tay. Câu chuyện được kể chỉ dùng tên họ. Thật kỳ quặc và lạ lùng. Rõ ràng, người in đã “sắp đặt” nó dưới sự giám sát của tác giả. Lối diễn đạt là sự kết hợp kỳ lạ của phong cách thế kỷ mười bảy và mười tám, còn việc thêm từ in nghiêng và viết hoa có lẽ không xuất phát từ đâu khác ngoại trừ chính đầu óc của tác giả.
“Trong khi chép lại câu chuyện này”, người bạn viết, “sự khác biệt về kiểu chữ, đánh vần,… được loại bỏ, nhưng mọi khía cạnh khác thì giữ nguyên không đổi”.
Trong bài học này, Phần Hai của Câu chuyện phép màu, tác giả Frederick Van Rensselaer Day, trích toàn bộ nguyên văn những gì đã được in trên những trang giấy da thuộc tự làm. Một ngày nào đó, những lời này cũng có thể trở nên quan trọng với bạn nhiều như với Sturtevant vậy…
Qua kinh nghiệm của mình, tôi đã rút ra được bí quyết thành công lớn cho mọi việc trên đời, nên tôi cho rằng đây là một việc khôn ngoan, khi mà ngày tháng của tôi đã sắp tận, truyền lại cho các thế hệ tiếp sau những lợi ích kiến thức mà tôi có. Tôi không xin lỗi vì cách diễn đạt của mình, cũng không xin lỗi vì khả năng viết lách có hạn, mà điều tôi viết ra, bản thân nó đã là một lời xin lỗi rồi. Cây bút không diễn tả được hết lòng tôi, mà hơn nữa, sức nặng năm tháng đã làm tê liệt trí não và cánh tay tôi; tuy nhiên, sự thật là tôi có gì thì nói vậy. Cách nói thì có gì quan trọng chứ, miễn là nội dung lời nói vẫn hữu dụng và được dùng, phải không nào? Trong câu chuyện của mình, có lẽ cách tôi thể hiện là những ngôn ngữ đã gắn với mình từ thời thơ ấu; vì ở tuổi của tôi, những chuyện xảy ra thời trẻ trở về trong nhận thức rõ ràng hơn những sự kiện mới đây; mà tôi cũng nghĩ không quan trọng suy nghĩ được thể hiện thế nào, mà quan trọng nó trọn vẹn và có ích, giúp người đọc hiểu được là đủ rồi.
Tôi đã nghĩ căng đầu về việc làm sao thể hiện tốt nhất công thức thành công mình đã phát hiện, và tôi thấy mình cứ nên diễn đạt theo cách mà nó đến với mình thôi; và nếu tôi biết liên hệ câu chuyện của mình với sự dày dặn cùng thành tựu, thì nó sẽ được giản đơn đón nhận thôi. Có lẽ vậy. Và có thể những thế hệ ra đời sau này, khi tôi đã thành tro bụi, vẫn sẽ cảm tạ tôi vì những lời tôi đã viết ra.
Cha tôi, khi đó là một người đi biển, những năm tháng còn trẻ đã bỏ nghề để ổn định trên một đồn điền tại thuộc địa Virginia, nơi nhiều năm sau tôi chào đời, vào năm 1642; đó là chuyện hơn một trăm năm về trước. Sẽ tốt hơn cho cha tôi nếu ông lắng nghe lời khuyên khôn ngoan của mẹ, rằng vẫn nên lo sự nghiệp học hành, nhưng ông không nghe theo, và con thuyền ông làm thuyền trưởng ra đi hướng tới vùng đất tôi vừa nói tới. Bài học đầu tiên bắt đầu ở đây:
Con người không nên mù quáng trước bất kỳ giá trị gì khi cơ hội mình đã nắm chắc trong tay, hãy nhớ rằng một ngàn hứa hẹn tương lai không bằng một lá bạc nắm chắc trong tay.
Khi tôi lên mười, mẹ tôi từ giã cõi đời, hai năm sau đó, cha tôi cũng đi theo bà. Tôi, người con duy nhất của cha mẹ, bị bỏ lại một mình; tuy nhiên, quãng thời gian đó vẫn có những người bạn đã chăm sóc cho tôi, cho tôi một mái nhà – điều tôi đã tranh thủ tận dụng trong khoảng thời gian năm tháng. Cha tôi không để lại tài sản gì; nhưng, càng hiểu biết, tôi càng tin chắc rằng bạn của ông, người mà tôi đã quanh quẩn sống dưới mái nhà họ trong một thời gian, đã lừa gạt lấy tài sản của tôi và cha.
Thời điểm mười hai tuổi rưỡi cho tới khi hai mươi ba tuổi, tôi sẽ không kể lại ở đây, vì nó không liên quan tới câu chuyện; nhưng khoảng thời gian sau đó, tôi đã có tổng cộng số tiền là hơn mười sáu đồng ghi-nê, tiết kiệm được từ thành quả lao động của mình; tôi lên tàu tới Boston, ở đây tôi bắt đầu làm một thợ đóng thùng, và sau đó làm thợ mộc trên tàu, nhưng chỉ đến khi con thuyền cập bến, vì biển cả không phải khao khát của tôi.
Vận may đôi khi sẽ mỉm cười với một đối tượng đích xác chỉ đơn thuần là vì sự ngoan cố mà thôi. Một trong những trải nghiệm của tôi chính là như vậy. Tôi phát đạt, và ở tuổi hai mươi bảy đã làm chủ một sân tàu mà chưa đến bốn năm về trước tôi làm thuê. Vận may, tuy nhiên, lại là một cô gái phải dùng sức ép buộc, chứ không thể chiều chuộng. Dưới đây là bài học số hai tôi có được:
Vận may luôn lẩn tránh, và chỉ có thể có được bằng sức mạnh. Xử lý cô ta nhẹ nhàng thì cô ta sẽ bỏ qua bạn để đến với người mạnh hơn.
Khoảng thời gian này, Thảm Họa (một trong những sứ giả của những linh hồn bất tán và tiêu tan) ghé thăm tôi. Trận hỏa hoạn thiêu rụi sân tàu của tôi, chẳng để lại gì ngoài những con đường rụi đen và những khoản nợ mà tôi không biết kiếm đâu ra tiền để trả. Tôi làm việc với những người quen, tìm sự trợ giúp để bắt đầu lại từ đầu, nhưng vụ hỏa hoạn thiêu rụi tiền bạc của tôi dường như cũng nuốt chửng mất sự cảm thông từ họ. Vậy là chuyện đã xảy ra như thế, trong một thời gian ngắn, tôi không chỉ mất tất cả, mà còn mang khoản nợ vô vọng với nhiều người khác; rồi tôi bị quẳng vào tù. Có lẽ tôi nên trấn tĩnh lại từ những mất mát này, nhưng sự sỉ nhục cuối cùng này đã làm tan nát tâm hồn tới nỗi tôi trở nên thoái chí. Tôi bị giam giữ trong tù suốt một năm sau đó; và khi mãn hạn, tôi không còn là con người tràn đầy hy vọng, hạnh phúc và mãn nguyện với số mệnh của mình nữa, cũng không còn niềm tin vào thế giới và con người, một lần nữa lại bước vào thế giới ấy.
Cuộc sống có nhiều con đường, trong số đó rất nhiều con đường đưa ta trượt dốc. Vài con đường dốc đứng, vài con đường thoải hơn; nhưng sau cùng, bất kể góc nghiêng là bao nhiêu, chúng đều dẫn tới một điểm đến cuối cùng – thất bại. Và đó chính là bài học số ba của tôi.
Thất bại chỉ tồn tại trong nấm mồ. Ai còn sống thì vẫn chưa thất bại; vẫn luôn có thể quay đầu lại và đi lại con đường mình đã đi xuống; có thể đâu đó sẽ có con đường ít gập ghềnh hơn (mặc dù lâu đạt được thành tựu hơn) và phù hợp hơn với điều kiện của anh ta.
Khi ra khỏi tù, tôi không một xu dính túi. Chẳng có gì ngoài tấm vải rách rưới che người và một cây gậy chống mà người gác ngục cho phép tôi giữ lại vì nó chẳng có giá trị gì. Tuy nhiên, là người làm công có tay nghề, tôi nhanh chóng tìm được việc làm với tiền lương tạm ổn; nhưng do đã được nếm mùi của thế giới này, sự không thỏa mãn chiếm trọn lấy tôi. Tôi trở nên buồn rầu và ủ rũ; do đó, để làm phấn chấn tinh thần và quên đi những mất mát của mình, tôi giết thời gian bằng những buổi tối ở quán rượu. Tôi cũng không hẳn uống quá nhiều, trừ những dịp đặc biệt (vì tôi vẫn luôn có chút gì đó sống đạm bạc), nhưng có thể cười đùa, hát ca và tiệc tùng, đùa cợt với những người bạn đồng hành không mấy tốt đẹp của mình; và ở đây có bài học số bốn:
Hãy tìm bạn bè trong những con người chăm chỉ, bởi những người ăn không ngồi rồi sẽ làm năng lượng bạn cạn kiệt.
Vào lúc đó, tôi thấy vui khi kể lại với một chút thêm mắm dặm muối câu chuyện thảm họa của mình và chửi bới những kẻ đã đối xử bạc bẽo với mình, vì họ đã không thèm trợ giúp tôi. Hơn nữa, tôi có một niềm vui trẻ con trong việc ăn bớt thời gian làm việc mà ông chủ đã trả lương. Việc đó còn tệ hơn là một kẻ trộm thực thụ.
Thói quen này tiếp tục lớn dần trong tôi cho tới ngày tôi thấy mình không chỉ mất việc, mà còn mất đi cả phẩm hạnh, nghĩa là tôi không thể hy vọng tìm được một công việc nào khác ở Boston nữa.
Chính khi đó tôi đã coi bản thân mình là một thất bại. Tôi có thể so sánh hoàn cảnh khi ấy chẳng khác nào một người đàn ông đang đứng bên bờ vực, rồi trượt ngã. Anh ta càng trượt xa bao nhiêu, thì tuột dốc càng nhanh bấy nhiêu. Tôi cũng từng nghe tình trạng này từ người bị xã hội ruồng bỏ miêu tả, mà theo tôi hiểu là một người chống đối lại tất cả, nghĩ rằng tất cả mọi người cũng đang chống đối anh ta, và từ đây ta có bài học số năm:
Người bị xã hội ruồng bỏ cũng giống như người bị bệnh phong, bởi cả hai đều phải chịu cái nhìn ghê tởm của con người – mặc dù họ cũng khác nhau nhiều, người bị xã hội ruồng bỏ có thể khôi phục trạng thái sức khỏe tốt, cũng hoàn toàn là kết quả của trí tưởng tượng; còn người bị phong thì có độc từ trong máu.
Tôi sẽ không nói sâu về sự trượt dốc dần năng lượng của mình. Xoáy sâu vào sự bất hạnh cũng không thỏa mãn gì (việc nói lên sự bất hạnh cũng vậy). Là quá đủ khi tôi nói thêm rằng những ngày đó tôi chẳng có gì để mua đồ ăn và quần áo mặc, và thấy mình chẳng khác gì ăn xin, hiếm hoi lắm mới kiếm được vài đồng lẻ, hay thậm chí là một đồng si-linh. Tôi không thể giữ được công việc ổn định, nên cơ thể tôi trở nên gầy còm, còn tâm hồn thì héo úa.
Tình trạng của tôi khi đó thật đáng trách; nhưng không phải về mặt thể chất, mà về mặt tinh thần, như ốm yếu sắp chết. Trong tâm trí, tôi coi mình bị cả thế giới tẩy chay, và đã bị chìm xuống dưới đáy rất sâu, rồi từ đây học được bài học số sáu, cũng là cuối cùng (bài học này không thể nói hết được bằng một câu hay một đoạn văn, mà cần phải thể hiện bằng cả phần còn lại của câu chuyện).
Tôi nhớ rõ sự thức tỉnh của mình, vì nó xảy ra vào giữa đêm, sự thật là thế, tôi đã tỉnh giấc. Giường tôi ngủ là một đống vỏ bào ở cửa hàng đóng thùng nơi tôi từng được thuê làm việc; mái nhà của tôi là một chóp thùng gỗ, bên dưới tôi tự làm lấy. Ban đêm trời lạnh, tôi rét cóng, nhưng ngược đời thay, tôi đã mơ về ánh sáng và sự ấm áp của những điều đẹp đẽ tràn đầy. Bạn có thể cho rằng khi kể về tác động của viễn cảnh đó với mình, tâm trí tôi đã bị ảnh hưởng. Vậy thì sao chứ. Chính hy vọng rằng tâm trí nhiều người khác cũng sẽ chịu ảnh hưởng tương tự đã thúc giục tôi viết ra tác phẩm này. Đó là giấc mơ đã chuyển hóa tôi đến với niềm tin này, mà hơn thế, với sự hiểu biết rằng trong tôi có hai con người tồn tại; và rằng con người tốt đẹp hơn của tôi đã giúp tôi nhận được sự giúp đỡ của người khác. Tôi đã nghe tình trạng này được miêu tả bởi từ “bản sao”. Tuy nhiên, từ đó không thể hiện hết ý của tôi. “Bản sao” có thể không gì ngoài bản sao, cũng như một nửa không làm nên con người. Nhưng tôi sẽ không triết lý ở đây, bởi triết lý chẳng là gì ngoài một bộ y phục trang trí che chắn cho kẻ ngốc.
Hơn nữa, bản thân giấc mơ không phải điều ảnh hưởng tôi, mà là ấn tượng giấc mơ ấy đem đến. Nó đã tác động đến tôi, giải phóng sự tự do cho tôi. Nói ngắn gọn, tôi khuyến khích con người kia của mình. Sau khi mệt nhọc kéo lê qua cơn bão gió tuyết, tôi nhìn qua khe cửa sổ và thấy con người kia của mình. Khuôn mặt anh ta hồng hào sức sống. Trước mặt anh ta là lò sưởi với những khúc gỗ bập bùng ánh lửa. Có một sức mạnh và quyền năng ý thức được trong thần thái của người đó. Anh ta về mặt thể chất và trí tuệ đều rất khỏe mạnh. Tôi rụt rè gõ nhẹ lên cánh cửa, và anh ta mời tôi vào. Không hề có nụ cười tàn nhẫn chế giễu nào trong mắt anh ta khi mời tôi ngồi vào chiếc ghế bên cạnh bếp lửa, nhưng cũng không hề mở lời chào đón. Và khi người đã ấm dần, tôi lại bước ra ngoài cơn dông bão, nặng nề với nỗi xấu hổ mà sự tương phản giữa chúng tôi đem đến. Chính vào lúc đó tôi chợt tỉnh dậy; và đây chính là phần kỳ lạ trong câu chuyện của tôi, vì khi ấy, tôi không hề ở một mình. Có một Linh hồn ở bên tôi; sau này tôi khám phá ra là người khác không thể thấy được, nhưng trước mặt tôi lại là thật.
Linh hồn đó rất giống tôi, nhưng lại cũng xa lạ đến ngạc nhiên. Đôi mày không cao hơn đôi mày của tôi, nhưng có vẻ tròn đầy hơn; đôi mắt sáng, thẳng thắn, tràn đầy mục đích, sáng ngời với sự nhiệt tình và cương quyết; đôi môi, chiếc cằm, đường nét và dáng hình đều nổi trội và cương quyết.
Anh ta bình lặng, kiên định và tự chủ; còn tôi rúm ró, run rẩy, sợ hãi những hình bóng không nhìn thấy được. Khi Linh hồn đó quay đi, tôi đi theo, và suốt cả ngày đó tôi không rời mắt khỏi nó, trừ lúc nó biến mất một lúc sau cánh cửa nào đó mà tôi không dám bước qua; ở những nơi như vậy, tôi chờ Linh hồn quay về trong sự lo lắng và sợ hãi, vì tôi vô cùng băn khoăn về sự táo bạo của Linh hồn (rất giống mà cũng rất khác tôi), trong việc tiến bước vào những nơi chính bàn chân tôi cũng e sợ bước đến.
Cũng có vẻ tôi được chủ tâm đưa tới những nơi và những người trước đó tôi rất sợ; tới những văn phòng nơi tôi từng giao dịch kinh doanh; tới những người tôi từng có những giao dịch tài chính. Suốt cả ngày, tôi đuổi theo Linh hồn đó. Và buổi tối, tôi thấy nó biến mất sau những cánh cổng nhà trọ nổi tiếng vì sự vui vẻ và cuộc sống yên vui. Còn tôi đi tìm cái chóp thùng gỗ và đống vỏ bào của mình.
Những giấc mơ tối hôm đó, tôi không còn gặp lại Cái tôi Tốt hơn (tôi đã đặt tên nó như vậy) lần nào nữa, dù thế khi tôi giật mình tỉnh dậy khi mới thiu thiu ngủ, nó đã ở cạnh tôi, mang theo nụ cười nhạo báng không hề thương hại hay chia buồn chút nào. Sự khinh rẻ làm tôi đau buốt tâm can.
Ngày thứ hai không khác gì ngày thứ nhất, đơn giản là lặp lại ngày hôm trước, và tôi một lần nữa lại thảm hại đứng ngoài chờ trong những chuyến đi của Linh hồn tới những nơi tôi sẽ rất vui lòng bước vào nếu có đủ can đảm. Chính nỗi sợ hãi đã xua đuổi linh hồn khỏi con người và khiến người đó đáng khinh.
Nhiều lần tôi định bày tỏ nhưng lời sắp nói ra lại mắc nghẹn nơi cổ họng, không thể thốt lên thành tiếng; và ngày hôm sau lại kết thúc như ngày hôm trước.
Chuyện xảy ra trong rất nhiều ngày, hết ngày này qua ngày khác, cho đến khi tôi thôi không đếm nữa; dù vậy, tôi phát hiện ra rằng việc tương tác thường xuyên với Linh hồn đang tạo ảnh hưởng lên mình; và một đêm, khi tỉnh giấc giữa những chiếc thùng, thấy rõ Linh hồn vẫn đang hiện diện, tôi đã can đảm lên tiếng, mặc dù vẫn khá rụt rè.
“Anh là ai?”, tôi đánh liều hỏi; và tôi giật thót vì giọng nói của chính mình. Câu hỏi dường như đã làm người bạn đồng hành hài lòng, nên tôi đoán trong nụ cười của anh ta đã bớt sự chế giễu khi đáp lời.
“Tôi là chính tôi”, đó là câu trả lời của anh ta. “Tôi là con người anh trong quá khứ; tôi là người anh có thể sẽ lại trở thành; nên hà cớ gì anh lại lưỡng lự? Tôi là người anh đã từng là, và cũng là người anh đã ném đi cho người đồng hành khác. Tôi là người được tạo nên trong mắt Chúa, là người từng sở hữu thân thể anh. Chúng ta từng ngự trị bên trong đó, không phải trong sự hài hòa, vì đó là điều không thể, cũng không phải trong sự đồng nhất, vì đó là điều bất khả, mà như những người khách trọ ở chung, hiếm khi đấu tranh để giành quyền sở hữu toàn bộ. Khi đó, anh là con người nhỏ bé, nhưng anh trở nên ích kỷ và đòi hỏi cho tới khi tôi không thể nào ở lại với anh được nữa, do đó tôi đã bước ra ngoài. Trong mỗi thân thể con người được sinh ra trên đời này, đều có một cá thể tiêu cực và một cá thể tích cực. Cá thể nào được cơ thể ưu ái hơn sẽ thống trị; và cá thể còn lại có xu hướng rời bỏ nơi cư ngụ, hoặc tạm thời, hoặc mãi mãi. Tôi là cá thể tích cực của bản thân anh; còn anh là cá thể tiêu cực. Tôi sở hữu mọi thứ; anh không có gì cả. Cơ thể mà cả hai chúng ta cùng trú ngụ vốn là của tôi, nhưng nó không sạch sẽ, nên tôi sẽ không ở lại nơi đó nữa. Hãy dọn sạch nó, rồi tôi sẽ chiếm lại.”
“Tại sao anh đi theo tôi?”, tôi hỏi tiếp.
“Là anh đi theo tôi, không phải tôi theo anh. Anh có thể tồn tại mà không có tôi trong vòng một thời gian, nhưng con đường của anh chỉ dẫn anh xuống vực, và kết thúc chính là cái chết. Giờ đây, khi dần đến kết thúc đó, anh đang đấu tranh xem có nên dọn sạch nhà cửa và mời tôi bước vào hay không. Vậy thì hãy bước ra khỏi tâm trí và ý chí đi; quét sạch sự hiện diện của anh; chỉ với điều kiện đó tôi mới có thể vào cư ngụ trở lại.”
“Tâm trí tôi đã mất đi sức mạnh rồi”, tôi ngập ngừng. “Ý chí hiện giờ rất yếu ớt; anh có thể chữa cho chúng không?”
“Nghe đây!”, Linh hồn nói, và anh ta vút lên cao trên tôi trong khi tôi co rúm mình trước chân anh ta. “Đối với cái tôi tích cực của một người, tất cả mọi sự đều có thể. Thế giới thuộc về anh ta, là tài sản của anh ta. Anh ta không sợ gì cả, không run sợ trước bất cứ điều gì, không gì ngăn cản được anh ta. Anh ta không xin đặc quyền, mà sẽ giành lấy chúng. Anh ta thống trị, nhưng không khúm núm. Lời yêu cầu của anh ta là mệnh lệnh. Những thứ đối nghịch bỏ chạy khi anh ta tới.”
Sau đó, tôi ngủ lại, khi tỉnh dậy, tôi dường như ở một thế giới khác. Mặt trời đang tỏa rạng và tôi thấy những chú chim đang ríu rít trên cao. Cơ thể tôi, ngày hôm qua còn run rẩy và ngập ngừng, hôm nay đã đầy sinh lực và sức sống. Tôi nhìn lên chồng thùng gỗ, ngạc nhiên vì đã dùng chúng làm nơi trú ẩn cho mình suốt một quãng thời gian dài, và cũng ngạc nhiên vì ý thức được rằng mình đã sống sót được tối qua dưới nơi trú ẩn thế này.
Những việc xảy ra tối qua trở đi trở lại trong tâm trí tôi, và tôi nhìn mình xem Linh hồn ở đâu. Tôi không nhìn thấy được, nhưng ngay lập tức phát hiện ra nó run rẩy ở một góc xa chỗ nghỉ của tôi, một dáng hình yếu ớt, khốn khổ, run bần bật, vẻ mặt biến sắc, hình dáng biến dạng, tóc tai bù xù, vẻ ngoài lếch thếch. Dáng hình ấy đi lảo đảo khi bước về phía tôi một cách tội nghiệp; tôi tàn nhẫn cười lớn. Bởi vì khi đó tôi biết đó chính là cá thể tiêu cực, và cá thể tích cực đang nằm trong con người tôi, mặc dù khi đó tôi chưa nhận ra. Hơn nữa, tôi đang muốn vội vã thoát khỏi đó. Tôi không có thời gian để triết lý. Có rất nhiều thứ tôi phải làm, rất nhiều. Thật lạ lùng vì tôi đã không nghĩ đến vào ngày hôm qua. Nhưng ngày hôm qua đã qua rồi – còn ngày hôm nay thì đang ở đây – và nó chỉ vừa mới bắt đầu thôi.
Như thói quen thường ngày, tôi quay bước theo hướng quán rượu, nơi trước đây tôi thường dùng bữa. Tôi gật đầu vui vẻ khi bước vào, và mỉm cười khi nhận lại được những lời chào đáp lại. Những người từng phớt lờ tôi hàng tháng trời cúi chào lịch thiệp khi tôi bước qua họ trên đường. Tôi tới nhà vệ sinh, rồi tới bàn ăn sáng, sau đó khi đi qua tiệm rượu, tôi dừng lại một chút và nói với chủ nhà:
“Tôi sẽ ở căn phòng trước đây từng ở, nếu còn chỗ trống. Nếu không, một phòng khác cũng được, cho tới khi tôi có thể ở phòng cũ.”
Sau đó tôi bước ra ngoài và vội vã thật nhanh tới xưởng đóng thùng. Ở đó có một xe ngựa chở hàng, những người thợ đang chất các thùng để chở đi. Tôi không hỏi gì, nhưng tóm lấy các thùng gỗ, bắt đầu ném về phía những người đang đứng trên đống thùng. Khi việc xong xuôi, tôi bước vào cửa hàng. Có một chiếc ghế trống, tôi nhận ra vì đống rác trên đó và không ai sử dụng nó. Đó đã từng là nơi tôi ngồi làm việc. Cởi áo khoác ngoài, tôi nhanh chóng dọn sạch đồ đạc, dụng cụ. Chỉ trong chốc lát, tôi ngồi xuống.
Một tiếng sau, người thợ cả bước vào phòng, ông dừng lại ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi; và bên cạnh tôi khi đó đã có một đống lớn vỏ bào gọn gàng, vì trước đây tôi từng là một người làm công rất tài giỏi, không ai sánh bằng. Nhưng, chao ôi! Hiện giờ, tuổi tác đã tước đi kỹ năng của tôi. Tôi đáp lại nghi hoặc của ông với một câu ngắn gọn, nhưng dễ hiểu: “Tôi đã trở lại làm việc, thưa ông”. Ông gật đầu và đi tiếp, xem xét công việc của những người khác, mặc dù ngay lập tức ông ngờ vực lướt nhìn về phía tôi.
Vậy đây bài học số sáu và cũng là bài học cuối cùng, mặc dù vẫn còn nhiều điều để nói, vì kể từ giây phút đó tôi trở thành một người thành đạt, và không lâu sau đó tôi sở hữu một xưởng đóng tàu khác, có được đủ đầy những điều tốt đẹp trên đời.
Tôi nguyện cầu cho các bạn, những người đọc và để tâm tới những lời khuyên này, vì từ “thành công” phụ thuộc vào chúng và tất cả đều nói lên rằng:
Bất kỳ điều gì tốt đẹp bạn khao khát đều là của bạn. Bạn chỉ cần chìa tay ra và nắm lấy nó.
Hiểu rằng khi ý thức về sức mạnh ưu trội trong con người mình chính là khi bạn có thể đạt được mọi thứ.
Đừng sợ hãi dù thế nào đi nữa, vì sự sợ hãi chính là phụ tá của cái tôi tiêu cực.
Nếu bạn có kỹ năng, hãy dùng nó. Thế giới phải được hưởng lợi từ nó, và bạn cũng từ đó mà được hưởng lợi.
Hãy đồng hành ngày đêm với cái tôi tích cực của mình. Nếu chú tâm tới những lời khuyên bảo của nó, bạn sẽ không mắc phải sai lầm.
Hãy nhớ, triết lý là một cuộc tranh luận. Thế giới - tài sản của bạn, là sự tích lũy các thực kiện.
Vì thế, hãy đi và làm những điều mà bên trong con người bạn phải làm; đừng chú ý tới những dấu hiệu hấp dẫn bạn dọc đường; đừng xin phép bất kỳ ai để làm gì.
Cái tôi tiêu cực yêu cầu sự giúp đỡ; cái tôi tích cực mang đến sự giúp đỡ. Vận may mỉm cười trên mỗi bước bạn đi, nắm bắt lấy nó, trói buộc nó, giữ nó, vì nó là của bạn; nó thuộc về bạn.
Bắt đầu ngay từ bây giờ, với những lời khuyên này trong tâm trí. Hãy vươn tay ra, nắm lấy cái tôi tích cực đó, dù có thể bạn sẽ chẳng dùng tới, trừ những trường hợp vô cùng khẩn cấp. Nhưng cuộc đời hầu hết đều là những lần khẩn cấp nghiêm trọng.
Cá thể tích cực hiện giờ đang ở bên bạn; hãy dọn sạch tâm trí và củng cố sức mạnh ý chí. Nó sẽ chiếm ngự bạn. Nó sẽ chờ đón bạn.
Hãy bắt đầu từ tối nay; bắt đầu ngay bây giờ hành trình mới của bạn.
Hãy luôn cẩn trọng. Bất kể cá thể nào kiểm soát bạn, cá thể kia sẽ vẫn quanh quẩn bên bạn; phải cảnh giác, nếu không cái ác có thể xâm chiếm dù chỉ trong chốc lát.
Vậy là nhiệm vụ của tôi đã hoàn thành. Tôi vừa viết xong công thức cho “thành công”. Nếu làm theo được thì sẽ không thất bại. Chỗ nào người đọc chưa hoàn toàn hiểu rõ, cái tôi tích cực của người đó sẽ bổ sung thêm phần thiếu ấy; và với Cái tôi Tốt hơn của mình, tôi giao trọng trách truyền đạt tới những thế hệ tiếp sau bí quyết của tất cả những điều tốt đẹp tràn ngập này – bí quyết trở thành những gì đã có sẵn trong bạn.