• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Hồi ký thời xuân sắc
  3. Trang 16

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 33
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 33
  • Sau

12Tìm bố

Tháng 4 năm 1975.

Cả ngày 30 tháng 4 người dân miền Bắc ai cũng ôm lấy cái đài radio theo dõi tin chiến sự từng giờ, từng phút. Lúc này, vợ chồng tôi đang ở nhà số 8 phố Thương Mại. Bắt đầu sang buổi chiều, còi tầm u lên, tiếng reo hò trong đài, reo hò bên ngoài ầm ĩ: “Miền Nam hoàn toàn giải phóng rồi!”

Mọi người nháo hết cả xuống đường nhảy múa, reo hò. Vợ chồng tôi cũng xuống. Tôi vẫn đang mặc chiếc quần tập của anh, cũng chạy xuống nhảy nhót với mọi người. Một niềm vui mà bao nhiêu triệu người chờ đợi đã mấy chục năm nay. Ai cũng thấy trong lòng tràn đầy sung sướng.

Ít hôm sau, anh Mai đến, gọi cửa nhà tôi vào lúc mười giờ đêm. Anh vồn vã nói:

- Thọ ơi! Mừng quá, anh đã nhận được tin chị và các cháu. Đi ăn gì hay uống gì chia vui với anh đi!

Tình cảm ấy chỉ những người trong cuộc mới ngấm cái cảnh xa cách, chia lìa mấy mươi năm như vậy. Những câu chuyện tương tự lần lượt đến với các chú, các anh ở Viện Kiểm sát.

Từ anh Mai đến anh Hường, anh Kỳ Nam, anh Khánh… mỗi anh một tỉnh đều đã nhận được tin nhà. Tuy không dám nói ra nhưng trong lòng tôi tha thiết mong được gặp bố, ít nhất là được nhìn thấy bố mình một lần.

Ngày xưa, bà ngoại từng cho tôi xem ảnh bố. Nhưng bức ảnh đã bị mốc, rất mờ, lại nhỏ nữa nên tôi không thể hình dung nổi gương mặt ông. Nay miền Nam giải phóng, nhưng tôi không biết tìm bố ở đâu, địa chỉ thế nào? Tôi luôn nghĩ về bố nhưng chẳng dám tâm sự với ai.

Sau gần một năm, đến tháng 4 năm 1976, mẹ tôi gửi thư cho tôi. Trong đó có thư của bố tôi gửi qua con ông Be, nhờ ông Be đưa cho mẹ. Ông bà Be đã mất, con ông ấy là cậu Tùng chuyển thư. Mẹ gửi ra Quảng Ninh cho tôi. Mẹ không nói một lời nào. Qua thư bố, tôi được biết bố vẫn nhớ mẹ con tôi. Cuộc ra đi của bố gặp đầy chông gai. Bố không còn là ông chủ như xưa nữa. Và bố cho biết địa chỉ nơi ở của bố. Nhận thư bố tôi mừng nhưng rất lo. Cái lý lịch tôi đã khai bây giờ giải quyết thế nào đây? Nhận bố hay không nhận?

Sau nhiều ngày suy nghĩ, tôi về hỏi mẹ. Mẹ bảo: “Tao không biết, chúng mày có đi tìm ông ấy thì đi, tao cho thêm tiền”. Mẹ vẫn lạnh lùng như ngày nào. Cuối cùng tôi quyết định nhận bố.

Tôi đem thư của bố lên trình bày với cán bộ tổ chức của Viện Kiểm sát và xin nghỉ phép năm để đi miền Nam tìm bố. Sau khi về sẽ khai lại lý lịch bổ sung. Viện Kiểm sát nhất trí cấp giấy phép cho tôi đi đến địa chỉ nơi bố tôi ở.

Lúc này, anh Thọ đang đi diễn theo đoàn tận miền Đông. Nếu tôi bàn thì không bao giờ anh cho tôi đi. Một là, chúng tôi chưa có tiền tích lũy, tháng nào tiêu quẹn hết lương tháng ấy. Hai là, tôi đang có bầu được ba tháng. Chúng tôi cưới đã hai năm, một lần bầu hai tháng bị sẩy. Bà Thu Viên - bác sĩ sản khoa bảo tôi rất khó có em bé vì nội tiết tố thấp. May mà hồi đầu năm bác Quỳ ở cơ quan (quý tôi như con) đi công tác bên Trung Quốc mua cho tôi ba lọ thuốc. Tôi chỉ đọc được ba vị thành phần trong đó là: xuyên khung, thục địa, đương quy, còn những gì gì nữa không biết được. Uống hết ba lọ này thì có bầu.

Chị Tâm cạnh nhà cũng muốn đi vì có chú ruột ở trong Nam. Thế là hai chị em rủ nhau đi. Tôi vay bạn bè và lương tháng tất cả được hai trăm hai mươi đồng. Mua vé tàu Thống Nhất chín mươi đồng, còn lại một trăm ba mươi đồng. Tôi đem theo một hộp sữa nước. Mẹ tôi bảo cho tiền đi thăm bố là bảo thế chứ mẹ có tiền đâu mà cho. Mẹ cho tôi ba cái bánh mì ăn đường trong ba ngày ngồi trên tàu. Hành lý của tôi là hai bộ quần áo, một chai mật ong anh Thọ mua cho dạo trước, nay tôi đem theo để biếu bố; hai quyển truyện: “Đi - tê con của người đời” tập 1 và 2. Một hộp sữa nước đặc và ba cái bánh mì cùng một trăm ba mươi đồng để mua vé đi ra.

Tàu lênh đênh trên biển ba ngày hai đêm. Tháng ba, sóng lặng, nhưng tôi vẫn hơi say lao đao. Từ boong tàu nhìn ra chỉ thấy mênh mông trời và nước. Một cảm giác sờ sợ bao trùm. Nhưng rồi khao khát gặp bố át đi tất cả.

Đến Bến Nhà Rồng vào buổi trưa. Trời nắng rát. Nhìn xuống, chỉ thấy người là người. Tôi hoảng hốt vì không biết nên đi kiểu gì. Chị Tâm bảo đừng lo, chú chị ấy đón. Một lúc, chú chị Tâm đón thật. Ba người ngồi taxi về nhà chú ăn cơm, nghỉ ngơi. Bốn giờ chiều chú gọi xích lô cho hai chị em đến nhà bố tôi, rồi lại chở chị ấy về nhà chú. Tôi thở phào vì thấy mình gặp may.

Chị dặn đừng nói gì để xem bố có nhận ra tôi không. Trước đó, tôi đã gửi ảnh và thư vào, chỉ không nói ngày đi. Qua bao nhiêu con phố, nhà cao ngất trời. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy phố xá, nhà cửa như vậy. Vì miền Bắc chỉ có nhà một tầng, hai tầng là cùng. Bao nhiêu năm ròng, người dân phần nhiều sống trong những căn nhà đổ nát do bom Mỹ tàn phá, thậm chí còn ăn ở trong hầm, trong hố, trong lòng đất nữa. Cho nên, vào đây tôi cảm giác cứ như đi nước ngoài.

Xe xích lô chở hai chị em tôi đúng đến số nhà 224/18 Bến Vân Đồn. Xe phải chờ ở ngoài vì ngõ hẻm bé quá không vào được. Hai chị em tìm đến được số nhà 18 là cả một vấn đề. Hẻm chật, tối tăm. Rác và phân đầy dưới chân. Mỗi bước đi đều phải cẩn trọng, cân não để né tránh. Người thì đông. Tuy nhiều nhà hai tầng nhưng thấp tè, chỉ với tay là đã đến mái nhà. Chúng tôi vào đến nhà số 18, có mấy đứa trẻ con tầm tám đến mười tuổi ríu rít chạy quanh nô đùa. Tôi hỏi thăm nhà ông Tá. Chúng chạy vội vào bếp tìm và gọi: “Bố ơi, có người kiếm!”

Theo lời chị Tâm, tôi vẫn lặng lẽ quan sát. Bố tôi trong bếp nhìn ra, thấy hai chị em ăn mặc kiểu miền Bắc, chắc bố sợ là cán bộ giải phóng, liền khoanh tay lễ phép nói: “Thưa hai bà, hai bà hỏi gì ạ?”. Tôi buồn cười quá nhưng vẫn phải lặng im. Chị Tâm vội vàng nói: “Bác ơi, cái Thủy đấy, bác có nhận ra không?”

Chẳng biết bố nghĩ gì mà tự nhiên chạy vào bếp, rồi lại chạy ra, rồi lại chạy vào, lại chạy ra. Chắc là mừng quá nên hơi ngớ ngẩn một chút. Tôi lấy ghế mời chị Tâm ngồi rồi gọi: “Bố! Con đây mà”. Lúc này bố tôi mới đứng lặng. Chị Tâm chào hỏi qua loa rồi quay về kẻo xe họ chờ. Còn lũ trẻ con tầm bốn, năm đứa gì đó nhìn hai cha con tôi chằm chằm. Chắc chúng lạ và ngạc nhiên lắm.

Nhà bố tôi cũng như mọi người trong ngõ, gọi là xóm dân lao động. Phía ngoài đường mới có nhà cao tầng, còn trong xóm lao động, dân cư ở chỉ có thế. Họ ở chật chội, bẩn thỉu, tăm tối hơn dân lao động ngoài Bắc. Ngoài Bắc, cuộc sống của mọi người sàn sàn như nhau, còn trong này phân biệt rõ kẻ giàu người nghèo, không có sự bình đẳng.

Nhà bố rộng chừng mười lăm mét vuông, chia hai ngăn. Ngăn ngoài có một bộ bàn ghế để ăn cơm và tiếp khách. Trong là bếp và nhà tắm. Xoong nồi treo đầy trên tường. Một góc bên ngoài nhà, bố quây lưới nuôi vịt, chừng hai mươi con. Trên gác là sàn gỗ, làm chỗ ngủ cho cả nhà. Không có giường tủ, đồ đạc như ở miền Bắc. Áo quần treo tất trong nhà. Ướt thì phơi ở lan can. Đi toilet thì phải ra nơi công cộng bờ sông. Ngồi trên sàn gỗ, đi tõm xuống sông. Khi nước cạn phân trơ ra ngổn ngang. Nước nổi thì mới có chút cảm giác sạch sẽ. Ra khỏi toilet công cộng đã thấy hàng quà ngồi ăn hai bên đường. Người dân ở đây cho chuyện đó là bình thường. Nhưng tôi thì thấy khổ quá.

Có hôm đi toilet về tôi bị lạc đường vì nhiều ngõ giống nhau. Tôi đi tận ra ngoài đường to, mãi mới tìm được đường về nhà.

Bố kể chuyện rằng từ khi ra đi gặp đầy gian khổ. Vào đó, sống như dân tị nạn. May là bố có ít vốn nên mua được nhà ở (tại đường Nguyễn Huệ bây giờ). Cô Kín khổ quá chịu không nổi đã bỏ bố theo một người lính Pháp, đem hai đứa con nhỏ đi, chỉ để lại em Ký cho bố nuôi. Sau đó, cô bỏ hai đứa con nhỏ này vào cô nhi viện. Bố đã đi tìm mãi mà không được. Rồi cô chết ở Đà Lạt khi sinh con mới cho người lính Pháp kia.

Bố một nách nuôi bốn cậu con trai (anh Nghĩa, anh Cường, anh Phong và Ký). Bố phải làm bánh, và các anh đi giao hàng cho bố.

Chính quyền Ngô Đình Diệm có ý định xây dựng lại khu này nên đuổi dân đi. Nhưng đuổi mà không có bồi thường nên chẳng ai chịu đi. Diệm đã cho lính đốt toàn bộ nhà dân ở đây. Bố trắng tay. Năm bố con ra đi, lại làm bánh khảo, lại giao bánh để kiếm sống.

Bố gặp và lấy một người phụ nữ luống tuổi là dân công giáo ở Ninh Bình di cư vào. Người này chỉ hơn tôi chừng mười tuổi nên nếu không lấy bố thì tôi chỉ gọi là chị. Dì xinh đẹp, nhỏ nhắn, đã đồng cam cộng khổ về ở với bố, giúp bố chăm sóc bốn đứa con. Nhưng dì lại đẻ sòn sòn liên tục bảy người con nữa nên gia đình ngày càng lâm vào cảnh túng thiếu. Bốn người con riêng của bố phải lên ở với cô Cần em ruột bố để cô cho ăn học.

Tối đến, ngồi cạnh cái radio đã cũ, bố tôi chống tay vào đó và nước mắt rơi lã chã. Tôi hỏi:

- Bố khóc à?

Ông cố kiềm chế sự lạc giọng của mình:

- Không, bố đang nghe đài.

Nhưng thực ra ông có nghe thấy đài nói gì đâu. Ông bảo:

- Bố cố chấp và tự ái cao quá. Bao nhiêu lần bác Thư, bác Thơ con đều khuyên bố trở về với mẹ con để các con có cả bố lẫn mẹ. Nhưng cái tôi trong bố nó to quá, sĩ diện nhiều quá. Bố đã không nghe lời các bác. Bố đi sai đường nên đến ra nông nỗi này, để kẻ Nam người Bắc. Mà rồi bố có lấy bao nhiêu vợ cũng không ai được bằng mẹ con. Bố ân hận quá.

Nước mắt của ông già ngoài bảy mươi tuổi khiến tôi xót xa và bất lực. Tôi chỉ an ủi bố được vài câu sáo rỗng.

Một buổi chiều ăn cơm xong, tự nhiên bố kể chuyện chiến sự. Bố bảo:

- Lính cụ Hồ xâm lược miền Nam lại còn rêu rao Mỹ ném bom miền Bắc.

Rõ là luận điệu của bọn Việt Nam Cộng hòa. Tôi liền bật phắt dậy phản ứng:

- Thật đấy bố ạ. Ngày nào chúng con chẳng ăn ở hầm, ở lỗ. Bom bỏ ầm ầm trên đầu. Máy bay đi, mọi người lại chui ra thu dọn chiến trường. Máy bay Mỹ bị bắn rơi nhiều lắm. Ở Thanh Hóa có cả cụ già dùng súng trường cũng bắn rơi máy bay.

Bố tôi đỏ mặt tức giận, đập bàn quát:

Mày nói láo! Máy bay Mỹ nó thế nào mà cái súng trường đểu ấy, cự li bao xa mà bắn được máy bay?

- Ô, thật mà. Súng trường đặt ở trên đồi, máy bay sà thấp xuống bỏ bom thì còn nhìn rõ cả thằng phi công ngồi trên, sao không tia trúng.

Hai bố con tranh cãi quyết liệt. Bọn trẻ con sợ quá chạy té, kêu to: “Bay ơi bố đập chị Thủy”.

Bố không đánh tôi nhưng buồn. Tôi giải thích tỉ mỉ về chiến sự ở miền Bắc mà chúng tôi phải trải qua. Việc giải phóng miền Nam là điều đương nhiên. Tôi nói một lúc lâu, bố chịu. Bố bảo, chai mật ong tôi biếu bố thì bố dành để ngày mai đi mua thuốc diệt chuột trộn vào ăn cho bõ tức.

Bố đưa tôi đi chơi đây đó và thăm hỏi họ hàng. Tôi thấy họ nội nhà mình vào đây khá nhiều. Chỉ còn lại cô Bảo Hiên làm bánh khảo rồng vàng Hải Dương là ở lại Bắc. Trong này có bác Thư, bác Thơ, cô Cần, chị Hợp, chú Mười. Có hôm chơi ở chú Hiệp. Chú ấy bảo:

- Từ khi giải phóng không có tự do, chỉ có chế độ cộng hòa của Mỹ mới có tự do.

Thế là tôi lại phải “đấu tranh” với chú một hồi về quan điểm chính trị:

- Chú ơi tự do phải trong khuôn khổ chứ. Tự do vô kỷ luật ai muốn làm bậy gì cũng được sao?

Chú không nói gì nhưng bố thì điên lên quát:

- Láo toét. Đã trong khuôn khổ mà còn gọi là tự do. Mày khóa cổng lại, bảo bọn trẻ con: “Đấy, sân đấy, chúng mày tự do chơi đi”. Thế mà gọi là tự do à?

Ở nhà, từ xưa tới nay chưa ai dám cãi bố, vậy mà tôi vào trong ít ngày đã làm bố nổi điên mấy bận. Tôi rất thông cảm vì bố sống trong chế độ Mỹ Ngụy họ tuyên truyền khác. Còn tôi sống ở chế độ Bác Hồ nên phải ngược lại thôi. Làm sao một sớm một chiều tôi và bố hay chú lại có thể đồng điệu với nhau được.

Nhưng từ hôm ấy, tôi không dám cãi bố nữa. Ở nhà bố ít hôm, cô Cần đến đón tôi. Cô bảo tôi đến ở với cô cho tiện.

Cô Cần, tên Cần là tên chồng còn cô là Nga. Cô hơn tuổi mẹ tôi. Số cô vất vả, 23 tuổi thì chồng chết ung thư, cô một mình nuôi em Quỳ. Năm cô 53 tuổi em Quỳ chết trận ở Quảng Trị, cô ở vậy luôn. Buồn, cô nuôi con gái chị Hợp cho vui. Nhưng 16 tuổi nó đã đi lấy chồng. Cô nuôi anh Phong, anh Nghĩa anh Cường và em Ký cho bố. Nay, anh Cường và anh Nghĩa chết trận. Anh Phong trốn đi lính về ở quê vợ tại Vĩnh Long. Còn Ký thì đi lấy vợ. Cô lại buồn. Tiếp tục nuôi em Đức và em Tùng cho bố. Nay Đức lấy vợ đi chỗ khác ở. Còn Tùng đi Mỹ theo bảo lãnh của nhà vợ. Hùng Anh phải đến ở thế chân các anh để chăm sóc cô tuổi già.

Tôi và cô lần đầu gặp gỡ nhưng nói chuyện rất hợp nhau. Có mấy ngày mà cô đã đọc hết hai tập “Đi- tê con của người đời”. Cô bảo “Sách miền Bắc xem hay thật đấy. Ở đây toàn sách truyện vớ vẩn, đọc không vào”.

Cô sống đạm bạc, trong ngôi nhà đơn sơ ở ngõ ổ chuột. Sàn nhà bằng ván gỗ, mỗi trận mưa nước dâng tràn lên thối vô cùng. Muỗi thì như ong. Mấy hôm đọc sách, cô phải mắc màn, hun cùi dừa mới đọc được. Cô kể rất nhiều chuyện về gia tộc, họ hàng tôi.

Rằng ông bà nội tôi là chủ cửa hàng bánh khảo rồng vàng nổi tiếng Đông Dương tại Kiến An, Hải Phòng.

Nhà làm bánh ngọt, bánh đậu xanh, bánh khảo, bánh dẻo, bánh nướng. Quê các cụ ở cạnh nhà thờ Đức Thánh Trần, Nam Định. Năm 1954, giải phóng Hải Phòng,

Rồi cô kể:

- Sau giải phóng, khi biết địa chỉ của bố, Tuấn Đen - em con - đã vào đây. Tuy nó đội mũ tai bèo nhưng nó giống anh Cường con như đúc. Khi vào đến cửa hỏi nhà ông Tá, lũ trẻ con bảo nhau: “Anh Cường về bay ơi”. Chúng nó ngỡ ngàng, rồi tỏ ra lo sợ vì chính chúng đã đi đám tang anh Cường con. Vào đến nhà, Tuấn vứt mũ tai bèo và ba lô xuống bàn đánh “pạch”, bảo bố con: “Ông xem thằng này giống ai? Ông có nhận hay không thì bảo?”. Bố con mừng khi biết chị em con bình an cả, chỉ phải kẻ Bắc người Nam thôi. Bao giờ bố con cũng thương nhớ các con đấy.

Nhưng chuyện ám ảnh tôi nhất có lẽ là chuyện này:

- Hồi anh Cường con còn sống, nó ở đơn vị lính nhảy dù. Đánh nhau ở Quảng Trị, nó kể: Một hôm đến càn ở một ngôi làng mà lính đơn vị nó thiệt hại quá nhiều. Súng máy của đối phương ở một góc độ lợi hại, bắn ra liên tiếp làm chết rất nhiều đồng đội của nó. Khi tiếng súng im, tiến lên được, anh con đã bắn trả quyết liệt. Tưởng đó là đối thủ, nhưng không, anh con chỉ thấy xác hai đứa trẻ con. Một đứa con trai tầm 11 – 12 tuổi, còn bé gái chừng 14 – 15 tuổi. Chúng đã chết khi súng hết đạn, và chúng vừa bị trúng đạn do anh con bắn trả. Tự nhiên, anh con nao lòng nghĩ đến hai đứa em ruột của mình, một trai một gái còn ở ngoài Bắc là con và Tuấn đen. Anh con tự hỏi và anh con luôn bị dằn vặt bởi hình ảnh này, không cầm nổi súng bắn phát nào nữa. Anh con đã bị chết bởi đạn bom ở trận đánh sau đó.

Cô dẫn tôi đi chơi khắp nơi bằng xe buýt để cho biết đây biết đó. Cô cho tôi ăn đủ thứ của ngon, vật lạ của Sài Gòn. Cứ tối đến, cô mở tủ đá ra kiểm xem hôm nay bán được bao nhiêu tiền. Thế là, sáng hôm sau, hai cô cháu lại đi chợ An Đông mua đồ ngon về ăn. Cô dạy tôi làm bánh ga tô, dạy tôi nấu một số món ăn tôi chưa biết. Tôi thấy cô gần gũi, yêu thương như mẹ mình vậy. Bên cô, tôi chạnh lòng nhớ mẹ. Mẹ luôn lầm lì, chẳng nói chẳng rằng, lúc nào cũng chỉ có hai cái que đan ngoay ngoáy liên tục. Nếu nói thì mẹ toàn nói lời trách cứ. Mẹ bảo cái số tôi ác lắm, “Con gái mà đẻ ngày rằm, nuôi thì nuôi vậy vẫn căm dạ này”. Chả biết mẹ đi xem bói ở đâu mà luôn cho rằng sinh tôi ra nếu tôi không chết thì bố hoặc mẹ phải chết. Vì cái số tôi nên bố mẹ tôi phải bỏ nhau và mẹ phải cho tôi ra ông bà ngoại ở từ bé là như vậy. Có lần mẹ ốm, tôi về thăm. Mẹ bảo: “Mày đừng về nữa. Số tao với mày khắc nhau. Cứ tao đang làm ăn tử tế, mày về là tao lại xúi xó. Vía mày hãm tài lắm!”. Lần ấy, tôi tìm em Nga để tâm sự chuyện này. Em bảo tôi đừng chấp mẹ. Nhưng tôi rất buồn, đã khóc và ra đi.

Cô Cần thì ngược lại. Cô bảo tôi ở lại đây. Mới giải phóng hộ khẩu còn đang lộn xộn, ở lại dễ không. Cô tìm việc làm cho. Cô cháu sống với nhau thì tốt biết mấy. Tôi cảm ơn cô, nhưng không dám ở lại vì tôi còn chồng ngoài Bắc. Hôm vào đây, tôi đã trốn anh mà đi. Anh biết sẽ buồn lo lắm. Tôi không thể bỏ anh được. Cô đưa tôi đi Vĩnh Long thăm anh Phong. Từ Sài Gòn xuống Vĩnh Long là 200 km. Ở đây, đất đai trù phú, phong cảnh yên bình, mát mẻ. Đến Vĩnh Long phải đi thuyền theo kênh rạch bốn tiếng đồng hồ mới vào tới nơi anh ở. Nơi đó là Trà Ôn – vùng của đồng bào Miên. Nhà cửa thưa thớt, không có đường đất, người dân phải đi lại bằng thuyền trên kênh rạch. Nhà anh bên cạnh dòng kênh, có một cái máy sát lúa thành gạo, chạy bằng máy nổ. Nơi này không có điện. Chim chóc kêu, nghe hoang vắng, rờn rợn. Xa xa, tiếng tụng kinh rầm rì của một tập thể người vọng lại.

Nhà anh lợp lá dừa. Tường nhà cũng bằng lá dừa ghép lại. Nền đất có vài tấm gỗ trải ra làm phản nằm. Trong nhà, có một cái bàn cũ xiêu vẹo, không có ghế, không có đồ đạc gì đáng kể. Chị thì chạy ra chạy vào để cơm nước đón cô cháu tôi. Rau muống thì ra dòng kênh lấy liềm mà cắt. Đất đai màu mỡ mà chẳng thấy ai trồng gì. Nếu tôi ở đây thì tha hồ trồng đủ thứ rau. Đi toilet thì ra bờ kênh ngồi, có hai cây gỗ làm cầu ra, cho tõm xuống kênh là xong. Mỗi cái ghe cập vào nhà anh, anh lại xuống vác lên 5, 7 bao thóc, cho vào máy chạy sè sè. Thóc chảy ra thành gạo, anh lại vác xuống ghe trả cho người ta, lấy vài đồng tiền công. Nhìn bóng dáng gầy gò của anh vác gạo, thóc trên con ghe bập bềnh, tôi thương anh vô hạn. Trước khi vào đây tôi vẫn tưởng tượng anh đẹp trai như trong ảnh. Tôi phải ôm chầm lấy anh cho bõ những năm tháng dài đằng đẵng xa nhau, ríu rít kể cho anh nghe nhiều chuyện… Nhưng khi gặp thì không phải thế. Anh gầy gò khắc khổ, cũng ít nói như mẹ. Hỏi gì anh cũng chỉ cười hiền từ và luôn miệng câu: “Dạ, phải!”. Còn chị thì nói liên hồi tiếng miền Nam, rất khó nghe. Tôi chẳng hiểu gì, chỉ nghe rõ câu “cô à…” thế là tôi “vâng” đều.

Bé Nhật, con anh chị rất đáng yêu, nhìn bé giống ảnh anh hồi bé. Bé chỉ thích ô mai, mà tôi lại không biết mà mua vào đây cho. Bé hỏi: “Cô đi tàu Thống Nhất có sợ con cá sấu không?”; “Cá sấu to lắm, nó cắn đấy”. Bé dí dí cái que vào tôi, cười dí dỏm.

Tối đến ăn cơm, phải thắp đèn dầu. Nhà anh chỉ có ba cái bát, hai đôi đũa và một cái thìa. Anh chị nhường cô và tôi ăn trước cùng bé Nhật. Xong rồi, chị rửa bát đi thì anh chị mới ăn. Ăn xong, chỉ có một chiếc cốc uống nước, phải mời cô uống trước rồi mọi người mới lần lượt uống.

Tầm 8 giờ tối, chị lại chèo ghe về thị trấn Trà Ôn nơi bố mẹ đẻ của chị ở. Cả ngày anh làm được đồng nào thì tối chị đem về cho bố mẹ chị, bảo là trả nợ bố mẹ đã cho anh chị vay để mua máy xát gạo làm ăn. Sáng hôm sau, chị lại chèo ghe vào đem theo thực phẩm cho hai bố con.

Nhìn cảnh anh, tôi xót thương vô hạn. Anh kể: “Anh bị bắt đi lính. Khi anh Cường, anh Nghĩa và em Quỳ chết trận, anh tìm cách xin sang hậu cần. Một thời gian sau, nó (ngụy) lại bắt anh đi chiến đấu, nên anh phải đảo ngũ trốn mà về ẩn náu nơi đây. Được ít lâu thì giải phóng. Tiền nợ mua cái máy xay xát chưa trả hết, nên cứ phải chịu cảnh này. Người vợ thì không đảm đang như con gái miền Bắc nên anh khổ lắm. Chị có tính nói nhiều, nói không đâu ra đâu nên cô Cần cũng ghét chị. Cả nhà chẳng ai ưa chị, đặc biệt là em Ký.

Sau chuyến đi này vài năm, tôi được tin bé Nhật chết. Bé lúc ấy chín tuổi. Chết trong cảnh bị người ta chặt ra làm ba khúc vứt ở đống rơm nhà chùa. Tôi vô cùng kinh hoảng và đau xót. Bé Nhật chết lúc anh Phong đi Sài Gòn, chỉ có chị ở nhà, không tìm ra thủ phạm.

Chào anh tôi về Sài Gòn để ra Bắc. Chị gửi tôi năm mươi đồng mua quà cho mẹ. Tôi không cầm. Nghĩ đến hoàn cảnh của anh, tôi không cầm nổi.

Đến ngày về thì không may cho tôi, tàu Thống Nhất hỏng, thông báo trả lại tiền cho hành khách. Tôi hoảng hồn lo lắng khi thời gian nghỉ phép một tháng đã hết. Tàu hỏa thì nào đã có như bây giờ. Đi ô tô thì phải đăng ký vé trước một tháng mới đến lượt. Tôi mượn bố cái xe đạp, mua tấm bản đồ hành chính thành phố tự đi chơi đây đó vừa để cho biết, vừa giết thời gian và gửi điện báo cho cơ quan, cho chồng biết tin. Tôi đến thăm chú Lâm Vĩnh Nghiệp - phó viện trưởng Viện Kiểm Sát tỉnh mới về Sài Gòn nhận công tác thì gặp anh Mai ở đó. Anh bảo từ khi tôi đi phép anh cũng được điều về Viện Kiểm sát Quảng Nam - Đà Nẵng. Nay anh vào làm việc với chú Nghiệp.

Lúc này, gặp người quen cùng cơ quan cứ như gặp đồng hương ở nước ngoài, tôi vui sướng vô cùng. Tôi mời anh Mai đến chơi, thăm bố tôi và ăn cơm ở đó. Mãi sau này tôi mới biết sự xuất hiện của anh Mai không phải là tình cờ mà do Viện Kiểm sát tỉnh nhờ anh đi điều tra hoàn cảnh gia đình tôi.

Hai tháng sau, tôi vẫn chưa mua được vé ô tô để đi ra Bắc nên đành phải đi tăng bo. Nghĩa là tôi mua vé đi Đà Nẵng, rồi từ Đà Nẵng ra Vinh, từ Vinh đi tàu hỏa ra Hà Nội, từ Hà Nội đi tàu hỏa đến Hải Phòng, rồi từ Hải Phòng đi tàu thủy ra Hồng Gai.

Trước khi về, tôi đến chào bố thì vô tình chứng kiến cảnh đói của nhà bố. Bố già rồi, không làm gì, chỉ ở nhà. Dì và hai em lớn đi bóc tỏi cho một hãng tỏi nuôi bảy người. Gia cảnh quá thiếu thốn. Hôm tôi đến, thấy bố nấu bột rồi đổ ra mẹt, quạt nguội thành bánh đúc để ăn. Bố chia phần cho các con. Tôi không nề hà mà ăn ngon lành. Tôi không hề biết đấy là sự nhường nhịn của bố. Khi về kể lại với cô Cần chuyện này. Cô bảo đấy là những ngày khó khăn nhất của bố. Cả nhà đói, phải sống cầm hơi. Tôi ân hận vì đã ăn quá nhiều bánh. Vào chơi, tôi chẳng có đồng nào cho bố, chỉ có đủ tiền vé đi ra mà tôi đã gửi cô. Cô nuôi tôi ba tháng trời. Hôm sau phải ra đi, tôi thương cô mà không biết làm sao. Cô đi chợ mua cho tôi nửa cân thịt nạc kho khô, gói lại với ba nắm cơm.

Cô bảo gói lá chuối ăn đường được ba ngày. Cô cho mười quả quất để chống say xe. Em Ký cho tôi một lọ vitamin dưỡng thai để đi trên đường được an toàn. Khi đi, bầu của tôi là ba tháng. Khi về cái bầu đã sáu tháng. Hành lý khi về nhiều hơn khi đi. Lúc vào đây, tôi mang theo hai mươi viên thuốc tetaxilin (kháng sinh viêm họng). Ký bảo đưa cho nó. Hôm sau, nó trả cho tôi 72 đồng. Tôi không thể tưởng tượng nổi sao kháng sinh ở đây đắt thế, trong khi ngoài Bắc tôi đi khám bệnh là được phát miễn phí. Tôi đem 72 đồng này mua cái khung xe đạp nữ với ý định khi về tới nhà sẽ mua thêm phụ tùng lắp vào là có xe đạp đi. Thế là lỉnh kỉnh đem thêm một cái khung xe. Em Ký cho tôi hai mét vải sa tanh pha kim tuyến màu đen. Ngày đó, ở Bắc vải quần của chị em phải phân phối, mấy năm mới đến lượt mình, mà chỉ được mua vải lụa chéo mà thôi.

Đến Đà Nẵng tôi tìm vào anh Mai ở Viện Kiểm sát Đà Nẵng ở hai ngày, chờ mua vé về Vinh rồi về đến Hà Nội và đi Hải Phòng.

Đến Hải Phòng, em Tâm (vợ Tuấn) bảo tôi: “Mợ chửi chị đấy. Mợ bảo chị đi lâu thế. Nó chỉ nhớ thằng bố nó thôi”. Tôi biết cái giọng mắng ấy của mẹ là vẫn còn thương bố tôi. Nhưng trong cái thương còn rất giận, rất căm hận.

Mẹ hỏi thăm bố và anh Phong, rồi bảo “Không ai cho con gì à?” Tôi đành kể tỉ mỉ cuộc sống của mọi người nhà mình cho mẹ nghe. Mẹ thở dài. Hàng xóm đến hỏi thăm tôi đi thành phố Hồ Chí Minh về thế nào. Mẹ tôi luôn miệng nói chen ngang: “Bố nó, anh nó cho nó bao nhiêu là vàng mà nó không lấy”. Tôi ngạc nhiên không hiểu sao mẹ cứ phải sống sĩ diện như vậy để làm gì?

Về đến nhà an toàn. Vợ chồng tôi mừng rỡ. Nhưng ngay hôm sau Viện Kiểm sát đã cho người đến nhà kiểm tra việc tôi đi xem tôi lợi dụng tuyến đường dài Bắc - Nam đã buôn những thứ hàng gì và mang được bao nhiêu hàng ra. Lãnh đạo yêu cầu tôi phải viết bản kiểm điểm và kê khai hàng hóa.

Tôi kê khai rõ là không có gì, chỉ có người nhà cho một tấm vải sa tanh đen và một cái khung xe đạp nữ mà thôi. Mọi người tỏ ra không tin nhưng không có chứng cứ gì để buộc tôi vào tội “buôn bán trái phép” nên đành chịu.

Tôi phải khai lại lý lịch phần bổ sung về bố. Tôi cảm thấy yên tâm và thanh thản. Nhưng mọi người vẫn có mặc cảm với tôi về cái chuyện “bố đi Nam” mặc dù bây giờ đã rõ tung tích.

Lúc đó, tôi mới biết ngoài bà Dưỡng tố giác tôi về lý lịch thì còn một người nữa là mợ Phong (vợ cậu Phong) cũng đã nói chuyện này với anh Mai ở Viện Kiểm sát thị xã. Mợ Long làm cấp dưỡng ở bếp tập thể ủy ban thị xã đã loan tin. Mọi người bấy nay vẫn lặng yên để theo dõi tôi. Thế nên, nhiều năm phấn đấu, tôi được đồng nghiệp bầu chọn để học cảm tình Đảng nhưng các lãnh đạo đều gạt ra.