Vợ chồng tôi chuyển từ nhà số 8 Thương Mại trở về khu văn công. Các đoàn văn công lúc này ở tạm nhà sơ tán của trường thủy sản, ao cá Cái Dăm. Bụng tôi to sắp sinh mà ngày nào cũng đi xe tháng 18 km mới vào đến Cọc Tám, nơi Viện Kiểm sát làm việc. Nhiều hôm ra đường muộn phải về lấy xe đạp, đạp đoạn đường dài tới cơ quan, cả đi về là 36 km.
Hôm ấy, đi làm về, phà đã bắt đầu ra. Tôi vội vác xe đạp nhảy lên phà. Phà ra mép nước chừng một mét. Để khỏi nhỡ phà, tôi đã phải trả một cái giá là sinh trước dự kiến 25 ngày (em bé được 8 tháng rưỡi).
Bụng tôi đau quằn quại, dây thăm hồng, tử cung chưa hề mở. Cô Tập - y tá đoàn văn công bảo: “Chị cứ ngủ đi, không việc gì đâu. Mai hãy đi bệnh viện cũng được”.
Tám giờ sáng hôm sau, cơm nước xong, anh Thọ lai tôi bằng xe đạp sang bệnh viện tỉnh (12 km). Sau khi kiểm tra sơ bộ để nhập viện, bác sĩ bảo tôi ngôi mông, ca đẻ khó. Hai vợ chồng toát mồ hôi hột.
Cả ngày nằm viện trong đau đớn, tôi không được ăn gì vì phải chờ mổ. Anh Thọ không được vào, chỉ có y tá chăm sóc. Bác sĩ giục đưa tôi vào bàn mổ. Chợt có một bà hộ sinh già bảo: “Chúng mày lúc nào cũng chỉ thích mổ. Ngôi mông nhưng thuận, lỏng, tử cung đã mở rồi, để đấy tao đỡ cho. Tao chịu trách nhiệm”.
Đến 7 giờ 30 tối ngày 4. 11. 1976, một bé gái ra đời. Đó là Quỳnh Mai. Sau này, bà Cần gọi là công chúa Quỳnh Mai. Nằm ba ngày ở bệnh viện sản Quảng Ninh, tôi chẳng thấy mặt chồng. Hóa ra, 7 giờ 30 tối hôm đó, chồng tôi đứng ngoài cửa sổ nghe thấy tiếng con khóc thế là yên tâm… ra về! Mọi sinh hoạt của tôi từ ăn uống, vệ sinh, thay rửa, y tá làm hết. Kể cả em bé cũng ở phòng riêng có y tá chăm sóc. Không bú mẹ mà bú bình nên sữa chảy nhiều toàn phải vắt đổ đi. Thời ấy họ không cho mẹ con chăm nhau, không cho bé bú mẹ khi mới ra đời như bây giờ.
Sau ba ngày, chồng tôi đến đón hai mẹ con về. Anh bảo là “bận”, “đoàn đi diễn, về đón mẹ con xong, mai lại phải đi”. Ngày ấy chưa có taxi hay xe ôm nên anh đang tính lai vợ con bằng xe đạp về thì biết một chị nằm giường bên có xe con của cơ quan đón. Nhà chị ấy gần chỗ tôi. Thế là mẹ con tôi được về bằng xe U-at.
Lúc đó, mẹ chồng tôi đã ra Quảng Ninh được hai tháng chờ tôi đẻ để giúp. Tôi chưa hiểu nhiều về bà nhưng thấy bà ra trước thì cũng yên tâm. Dù sao đây cũng là ý tốt của bà. Tuy nhiên, sống cùng ít ngày tôi đã ngấm và sợ thói phong kiến đặc sệt của mẹ chồng. Trước khi chuyển về khu văn công, chúng tôi ở bên nhà số 8 Thương Mại, bà đã ra để chuẩn bị lo việc chăm sóc tôi đẻ. Nhà này có đặc điểm nếu ở gian trong thì bị hơi nóng của lò mì bên hàng xóm bốc sang như thiêu như đốt, nếu ở gian ngoài thì bị nắng hướng Tây buổi chiều xói vào, cả nhà như sống trong lòng chảo rang. Chiều nào vợ chồng tôi cũng phải đưa nhau đi Bãi Cháy mắc võng vào thân cây dừa nằm cho đến đêm mới về. Hàng ngày, anh Thọ đi làm bên khu văn công. Tôi ở gần thì trưa và tối về ăn cơm với bà.
Anh Thọ giúp tôi xách nước lên nhà (vì bể nước công cộng ở tầng một) là bà sưng sỉa nói: “Thọ đi cả ngày khòm khọm vất vả mà mụ ở nhà không chịu xách nước để nó phải làm… (bà toàn gọi tôi là “mụ”). Tôi quen thói hay phản ứng ngay nên phân tích cho bà hiểu việc làm của anh Thọ là giúp đỡ vợ con là bình đẳng… Bà liền mắng tới tấp: “Ở đây chứ ở quê mà mụ để nó xách nước và quét nhà thì cả làng người ta chửi mục mả nhà mụ ra”. Tôi sợ, chẳng dám nói gì nữa, dù trong lòng đầy bực bội. Có hôm chỉ hai mẹ con ở nhà, bà bảo: “Thích ăn mì, không ăn cơm”. Tôi để bà nấu. Bà lôi cái nồi nấu nước tắm ra, nấu một nồi đầy, đến mười người chẳng ăn hết. Tôi có ý trách bà nấu nhiều, đồ thừa đổ đi thì phí mà để hôm sau thì thiu không ăn được. Vậy là bà hùng hổ mắng tôi: “Tôi quen nấu ở nhà rồi. Nấu nhiều còn để dành cho con cháu đến ăn. Mụ không ăn để đó mai tôi ăn”. Tôi sợ quá chẳng dám nói nữa. Tất nhiên, sáng hôm sau bà chưa ăn miếng nào thì đã phải đổ đi vì nó chua dềnh lên.
Có hôm tôi mua cá. Bà bảo để bà làm. Đến bữa, nhìn nồi cá không thể ăn nổi. Cá không đánh vẩy, không móc mang, không mổ bụng, cứ để thế nấu. Kho không ra kho, riêu không ra riêu, tanh không thể ăn được, mà người có bầu như tôi khi ấy lại càng khó ăn. Tôi giảng giải cách làm cá cho bà. Bà cáu tiết bảo: “Tôi bảy mươi tuổi rồi, mụ không phải dạy”. Tôi đành im. Sau đó, kể lại cho chồng. Anh bảo: “U rất tốt, nhưng quan niệm phong kiến nặng nề, em cho qua đi, đừng để u giận mà về. Lúc em sinh nở, anh đi diễn theo đoàn, ở nhà em khổ lắm đấy”. Tôi nghe chồng nên nén nhịn tất cả. Sau khi chuyển nhà sang khu văn công ít ngày thì sinh bé Quỳnh Mai. Bà tình nguyện giúp đỡ cơm nước, giặt giũ. Hồi ấy, tôi nuôi một đàn gà để ăn khi đẻ. Hàng ngày giết gà làm thức ăn. Một hôm mới bốn giờ sáng tự nhiên bà gọi: “Ông mụ nhà ông Thọ dậy cho tôi nói chuyện”. Hai vợ chồng tôi vội bật dậy, thấy bà đã sắp áo quần vào túi du lịch. Tôi nhìn anh, anh nhìn tôi như muốn hỏi xem có ai thất lễ gì với bà không rồi nhìn nhau lắc đầu khó hiểu. Bà cao giọng bảo:
- Tôi ra đây đã sắp được ba tháng, ý đồ để giúp đỡ mụ khi đẻ chứ có phải tôi chết đói, chết khát, ham ăn, ham uống đâu mà hôm qua mụ ấy lại gắp cho tôi cái đít gà. Tôi nghĩ chán rồi, tôi không chịu được. Ông mụ thu xếp cho tôi về quê”.
Lúc ấy tôi mới à ra. Chuyện là vào bữa ăn tôi thường gắp thức ăn bỏ vào bát bà, tỏ ý kính trọng. Tối hôm trước ăn cơm, nhìn vào nồi thịt gà kho, tôi thấy chỉ còn lại mấy miếng xương. Tôi băn khoăn không biết gắp cho bà miếng nào. Bới bới nồi thịt thấy có cái phao câu gà. Các cụ vẫn bảo “thứ nhất phao câu, thứ nhì âu cánh”, nghĩa là thứ ấy ngon nhất con gà. Tôi hồ hởi gắp cho bà. Bà vứt pạch xuống đất cho chó. Lúc ấy tôi cứ tưởng bà làm rơi nên kệ. Ai ngờ bà lại quan niệm đó là “cái đít gà”, gắp thứ ấy là xúc phạm bà. Tôi vội vàng xin lỗi, thanh minh. Anh Thọ phải nịnh nọt mãi bà mới ở lại. Mọi chuyện tạm êm.
Tôi đẻ được hai mốt ngày thì bà ốm. Tôi phải dậy làm mọi việc. Anh Thọ có tiêu chuẩn bồi dưỡng thanh sắc của văn công mỗi quý sáu hộp sữa đặc. Thấy sữa để trong chạn, anh bảo:
- Sao em không ăn đi?
Tôi thành thật trả lời:
- Em không dám ăn vì mở ra mời u thì u không ăn nhưng hễ em ăn là u lại bảo: “Thằng bố nó khòm khọm cả ngày mà chẳng được cái miếng chi. Còn con mẹ nó ăn lắm béo hú ra”. Em sợ.
Sau khi con gái tôi đầy tháng, bà bảo:
- Sữa mụ xấu lắm, nuôi con chẳng lớn tý nào. Từ mai mụ chỉ cần cho nó bú ban đêm, còn ban ngày mụ để tôi lóng cháo cho bé ăn, bé mau lớn. Ở quê, tôi toàn làm vậy cho bầy cháu. Đứa nào cũng tròn cung cúc ấy.
Tôi mới sinh lần đầu, chẳng hiểu gì về việc nuôi con, cộng với nỗi sợ bà phật ý bỏ về quê nên đồng ý. Bà bỏ ra bọc đỗ xanh và gạo nếp đem từ quê tới. Ngày ngày, bà nấu hai thứ ấy thành cháo. Bà lấy vải màn lọc lấy nước đặc, quấy thêm tí đường, rồi đổ vào chai có nắp bằng vú cao su cho bé mút. Bé đói nên ăn ngon lành, còn tôi sữa căng chảy thì vắt vào cái bát đổ cho chó uống. Khoảng mười ngày sau, bé bắt đầu bị đi ngoài. Bác sĩ ở gần nhà cho uống cloxit ba ngày, càng đi nhiều hơn. Tôi phải đưa bé đi bệnh viện. Ngày ấy đi bệnh viện đúng tuyến là bệnh viện thị xã, ở tận Cao Xanh, gần khu bệnh viện Lao ngày nay. Từ nhà tôi sang đó là 20 km. Trời rét căm căm, vợ chồng tôi thay nhau bế con, đi từ đầu phòng đến cuối phòng bệnh ru hời hời. Phòng bệnh dài chừng 20 mét kê hai dãy giường, có một cái bếp than ở giữa cho bệnh nhân sưởi. Bế bé giúp vợ đến sáng thì anh phải về đoàn tập vở. Ngày nào anh cũng lóc cóc đạp xe đi xa như vậy. Vài ngày sau, bé càng đi ngoài nhiều hơn. Do mất nước trầm trọng nên phải truyền huyết thanh. Y tá và bác sĩ chọc ven cho bé mà từ hai giờ đến năm giờ chiều không được cái nào. Cứ chọc vào là ven bị vỡ. Tôi giữ con cho người ta chọc chạch mà ruột xót như có muối sát. Đến năm giờ thì tôi đơ cả người. Còn anh, đạp xe lên bệnh viện tỉnh tìm chị Tâm. Chị Tâm cùng ở nhà số 8 cũ, sát nhà tôi. Lúc này, bác sĩ không tìm được ven thì phải truyền bắp thịt. Cứ mỗi giọt nước xuống thì bé lại giật mình một cái. Do khóc nhiều quá nên bé không khóc tiếp được nữa mà ngủ vùi trong mỏi mệt.
Chị Tâm đến liền vào gặp bác sĩ để xin phép tìm ven tiếp cho bé. Tất cả các ven ở tay, chân, đầu đều đã vỡ. May sao còn cái ven ở đầu, chị chọc một cái được ngay. Lúc ấy việc truyền nước mới thuận. Thần sắc con gái tôi dần trở lại bình thường. Chị Tâm mắng tôi: “Sao thật thà thế. Lần sau ốm cứ bế vượt tuyến lên bệnh viện tỉnh rồi chị bảo lãnh xin vào cho. Còn bây giờ, truyền xong chị xin cho chuyển viện ngay”.
Tôi bế con lên bệnh viện tỉnh. Sau khi tiêm năm ngày bé vẫn không đỡ, đi ngoài mỗi lúc một nhiều hơn. Một ngày phải đi hai mươi lần. Có cô y sĩ tốt bụng đến kiểm tra phân bé, hỏi tôi tỉ mỉ về sinh hoạt, đồ ăn uống của bé, của tôi. Tôi thật thà kể hết mọi chuyện. Cô ta khuyên: “Con chị bị đi ngoài sinh lý chứ không phải bệnh lý. Bé không đi ngoài do vi trùng mà do chưa có men tiêu hóa tinh bột đã nhưng cho ăn tinh bột. Thứ gạo nếp đỗ xanh đó phải dùng cho trẻ trên mười tháng tuổi chứ con chị mới hơn một tháng, ăn sao được. Chị xin cho bé ra viện rồi về chữa thuốc nam đi, không tiêm kháng sinh nữa. Ngày mai bác sĩ đến khám chị phải nói là con đỡ rồi thì mới được ra viện”.
Tôi nghe lời khuyên của cô y sĩ, xin cho con ra viện. Trên đường về, tôi rẽ vào chùa Long Tiên. Ở đấy có một bà lang chuyên chữa các loại bệnh trẻ con. Tôi mua thuốc ở đó. Địu con đạp xe về đến nhà tôi mới hay mẹ chồng đã bỏ về quê, không ai biết. Nguyên nhân là do anh Thọ trách bà cho bé ăn đỗ xanh, gạo nếp gây đi ngoài nên bà tức giận. Tôi thấy thoải mái khi bà về, chỉ tội làm gì cũng phải địu con trên lưng. Anh Thọ thì đi diễn theo đoàn, còn tôi trở thành “bà lang” sắc sắc đun đun suốt ngày. Ngoài đun thuốc ra lại phải nấu cháo bằng khoai tây, cà rốt lấy nước cho bé ăn. Bác sĩ bảo ăn cà rốt tăng chất săn niêm mạc ruột, ăn khoai tây cho đủ dinh dưỡng lại dễ tiêu hóa. Phần vì không cho bú nhiều nên nguồn sữa cạn kiệt, phần vì tôi quá vất vả mà ăn bồi dưỡng lại không đủ nên không có sữa cho bé bú, đành phải cho con ăn trực tiếp nước cháo và sữa hộp bồi dưỡng của chồng. Ngày ấy không có sữa bột bán ở các cửa hàng như bây giờ. Tôi đi bệnh viện sản khám sữa bác sĩ chứng nhận và cấp cho một cái phiếu sữa sáu tháng: được mười hai hộp sữa, loại sữa như “sữa ông Thọ” bây giờ.
***
Tiêu chuẩn nghỉ sinh bé lúc bấy giờ chỉ được hai tháng cộng thêm nghỉ phép và xin nghỉ tự túc một tháng nữa là ba. Đã hết ba tháng nghỉ ấy phải đi làm trở lại. Tôi băn khoăn không biết tìm ai bế bé. Bên Bãi Cháy không có nhà trẻ, mà nhà trẻ “liên cơ” ở tận Cọc Tám. Chả lẽ ngày nào cũng bế bé đi gần hai mươi cây số theo xe tháng ư? Một ngày đi về bốn mươi cây số, bé chịu sao nổi? Mẹ chồng bỏ về quê. Chồng thì đi diễn theo đoàn; càng ngày lễ Tết lại càng phải đi diễn xa. Tôi đành phải sang Hồng Gai đón bà ngoại về trông cháu giúp. Lúc này, bà đã quá già, ngại trông trẻ con nên cứ lần lữa.
Một hôm gạo hết, anh đi diễn, cả khu văn công vắng teo không bóng người, chẳng có ai gửi bé để đi mua gạo. Lúc ấy, mua gạo theo sổ, phải đạp xe đi tận Hồng Gai mới mua được. Vì hộ khẩu của tôi chưa chuyển về khu Bãi Cháy. Nằm kẹt giữa hai quả đồi mênh mông chỉ có cây rừng, tôi vô cùng ngao ngán. Mấy hôm củi hết tôi đã phải địu bé đi chặt củi. Lưng địu bé, một tay cầm dao, một tay buộc dây lôi được một bó củi khô về. Đến hôm gạo hết chưa biết làm sao được thì Nga - em gái tôi - tới chơi. Em tìm được chỗ chị ở, đem cho chị cái bánh chưng và ít thịt rán. Tôi mừng rớt nước mắt. Thế là có đồ ăn, lại có người bế bé cho mà đi mua gạo.
Ở cái đồi văn công ấy nhiều lúc cảm giác rằng nếu chết cũng chẳng ai biết. Đoàn đi diễn cứ phải hàng tháng mới về. Lúc này tôi mới ngấm cái câu ngày xưa Thanh Tùng bảo: “… Em lấy cái thằng kéo xe bò có khi còn hơn. Thọ đi diễn theo đoàn suốt, khó khăn gian khổ chả giúp gì cho em cả. Khổ lắm đấy”. Lúc ấy chỉ biết thích là yêu, làm sao hình dung ra cảnh này.
***
Chồng tôi đi diễn biền biệt, về đến nhà, chả giúp gì được vợ con, suốt ngày cầm quyển sách đọc hoặc hì hụi viết lách. Sểnh ra thì bàn bạc kịch cọt với vài ông bạn. Nếu có tí thời gian trống nào nữa là nghe nhạc, chơi đàn, vẽ tranh hoặc suy tư. Cơm có gì ăn cũng được, mặn nhạt không thành vấn đề. Nhà có việc gì, như con ốm, vợ đau chả hạn, anh chẳng quan tâm. Nói gì, anh cũng như người trên mây trên gió. Hễ động vào việc gì, hỏng việc ấy. Khổ quá thì tôi phải kêu ca. Đôi khi, đó cũng là giải pháp để giảm bớt phần nào sự căng thẳng, vất vả hàng ngày phải chịu đựng. Anh mặc nhiên cho rằng cuộc sống nó vậy, và anh cũng chỉ có vậy. Tôi là vợ thì phải chấp nhận. Anh bảo việc của anh tưởng cao sang, quý tộc nhưng chả sung sướng gì. Đầu óc lúc nào cũng phải vận động, suy tư để học tập và sáng tạo, không bao giờ nhàn hạ hay yên ổn. Dẫu sao, những việc tôi cằn nhằn chỉ là chuyện vặt. Nhìn quanh, ai chả khổ. Anh kể về những phụ nữ dân tộc gặp trên đường lưu diễn, họ khổ gấp vạn lần tôi. Họ không công ăn việc làm, không lương, không chế độ, không cả kiến thức. Lại còn phải sống cùng người chồng suốt ngày say rượu, động tí là nó đánh cho sưng mặt mày, chửi bậy thì như cơm bữa. Đẻ cứ sòn sòn như vịt, chẳng ai chăm nom, giúp đỡ. Họ vẫn sống như cỏ cây đấy thôi, vẫn yêu chồng, chiều con. Trong khi anh chỉ biết nịnh, vợ làm gì cũng đúng. Như vậy, còn kêu ca nỗi gì?