Mùa hè năm 1977, Quỳnh Mai được sáu tháng tuổi. Tôi về làm tại Thủy lợi được hai tháng. Một hôm anh dẫn tôi đi chơi, qua con đê ao cá, cách chỗ ở một cây số. Anh bảo anh tìm được một cái nhà tranh trên một mảnh đất rất yên bình. Anh muốn mua. Hai chúng tôi đến xem. Quả là phong thủy thì thích rồi. Sau lưng là đồi, trước cửa là biển. Sóng vỗ nhẹ. Cây cối xanh tươi, mát mẻ. Mảnh đất rộng, vuông vức, chừng hai sào. Đường vào là đường mòn. Ô tô chưa đi được. Điện chưa có. Nước thì có giếng khơi. Chúng tôi từng ở chật chội, khổ sở như bên nhà số 8 Thương Mại mà nhìn cảnh này thì mê ngay.
Tuy chưa có điện nước như ở phố nhưng tương lai chắc sẽ có. Trong khi đó, nơi hiện tại là nơi mà cả đoàn văn công ở nhờ nhà sơ tán của trường thủy sản.
Nếu đợi đoàn xin được đất xây khu văn công chắc còn lâu. Rồi lại cái cảnh tập thể như ở nhà số 8 Thương Mại thì càng cơ cực.
Mảnh đất này của một người cán bộ miền Nam tập kết được cấp một sào, vỡ hoang thêm ra một sào nữa. Nay họ chuẩn bị trở về miền Nam nên bán. Nhà chồng có vợ và năm con nhỏ, trông khá nheo nhóc. Trên mảnh đất là cái nhà cắm cột trát vách (tường bằng đất trát trên cây đóc), trên lợp giấy dầu, đã xiêu vẹo. Phải kéo bốn cái dây cáp để chống bão. Họ đòi giá hai ngàn hai trăm đồng mới bán. Vì thích phong cảnh nơi đây quá, anh Thọ liền nói với chủ nhà:
- Em trả hai ngàn mốt. Anh chị bán thì mai em chồng một nửa tiền trước.
Gia chủ đồng ý ngay. Nhiều người xì xầm bảo chúng tôi mua bị đắt. Nhưng mọi sự đã rồi. Tôi thì cứ tưởng anh có vốn riêng gì đó nên mới nói mạnh thế. Tiền lương của hai vợ chồng, tôi giữ cả, làm đến đâu tiêu quẹn đến đấy, làm gì để dành được đồng nào.
Tôi hỏi anh:
- Vốn riêng giấu ở đâu? Được bao nhiêu?
Anh cười:
- Anh chẳng có một đồng vốn riêng nào cả.
- Thế sao anh lại nói với chủ nhà như đinh đóng cột thế?
- Ừ, cố gắng lên rồi sẽ có cả.
Thì ra lúc ấy anh có một tác phẩm là vở chèo “Cánh chim địa chất” mà đoàn chèo Quảng Ninh đang dựng. Anh đề nghị đoàn chèo cho tạm ứng nhuận bút là tám trăm đồng và đem đặt cọc cho nhà chủ. Còn thiếu một ngàn ba trăm đồng nữa anh bảo đi vay.
Thế là tôi bế con nhỏ đi khắp chỗ ở của người thân, bạn bè để vay tiền mua đất. Ngày ấy, bạn bè của tôi và của anh chả ai giàu có. Người cho vay năm mươi đồng, người ba mươi đồng. Mẹ tôi cho vay tám mươi đồng bảo là tiền của hai em Tuấn, Hùng. Lúc này Tuấn vẫn đi làm ở hợp tác xã dép nhựa. Còn Hùng làm ở công ty công trình thủy hai, nơi tôi từng làm.
Ở quê anh thì không ai có tiền cho vay. Lúc này, tôi bán cả đôi giày da anh Mai tặng anh được ba mươi đồng, một karavat ba mươi đồng, bán một bộ quần áo vải ximili của anh (được đoàn mới may cho để chuẩn bị đi diễn miền Nam) được ba mươi đồng. Bán hai mét vải xa tanh kim tuyến em Ký tặng được ba mươi đồng. Bán cả cái phiếu đường năm lạng một tháng của Quỳnh Mai được mười lăm đồng. Bán phiếu sữa sáu tháng của Quỳnh Mai được mười hai đồng. Hết. Chẳng còn gì để bán nữa. Cộng tất cả các khoản vay và tiền bán các thứ vẫn còn thiếu ba trăm đồng mới đủ hai ngàn mốt. Lúc ấy, thu nhập của nhà tôi chỉ có lương anh được bảy hai đồng một tháng, lương tôi được bốn lăm đồng một tháng.
Tiền nhuận bút vở “Cánh chim địa chất” là một ngàn mốt. Đến khi trả, lãnh đạo đoàn chèo ăn đầu trừ đuôi của anh, cuối cùng thanh toán cho anh được bảy trăm năm mươi đồng. Thế là anh đã tạm ứng tám trăm đồng thì phải nợ đoàn năm mươi đồng. Họ quyết định trừ số đó vào lương.
Thiếu ba trăm đồng nữa, tôi không biết vay đâu. Trong nhà chẳng còn gì để bán nữa. Chủ nhà thì cần đủ tiền để còn về miền Nam, không cho nợ.
Bà ngoại tôi bảo: “Có chịu vay trả lãi thì bà dẫn sang bà Chính (bạn của bà) cho vay, lãi mười phân đấy”. Vậy là tôi phải vay ba trăm đồng, mỗi tháng trả lãi cho bà Chính ba mươi đồng, gần bằng tháng lương của tôi. Nhưng lúc này đã ngồi trên lưng hổ rồi, cứ phải phi thôi. Giấy tờ mua đất, nhà chỉ do hai bên viết tay cho nhau, có một ông hàng xóm là bác Sơn làm chứng chứ không ra ủy ban làm thủ tục được. Vì lúc này mà làm thủ tục ít nhất phải mất lệ phí từ một trăm đến hai trăm đồng. Riêng thuế trước bạ năm phần trăm đã là một trăm đồng rồi. Còn các khoản khác kèm theo nữa. Tôi không thể xoay xở thêm được. Chúng tôi nộp đủ tiền nhưng gia chủ vẫn chưa trao nhà với lý do: ở nhờ để chờ ngày đi miền Nam. Chúng tôi chờ đến hơn một tháng sau họ cũng chưa chuyển, tôi đành đến ở chung với họ để giữ chủ quyền của mình. Thế là căn nhà giấy dầu vách đất hai gia đình cùng ở. Căn nhà vừa chật chội vừa tối tăm. Tối đến, một cái đèn dầu lù mù, ếch nhái, chão chuộc kêu ran, buồn nẫu ruột. May mà vẫn có tiếng sóng biển rì rầm vỗ nhẹ như an ủi chúng tôi.
Khi mua đất thì phải mua cả tài sản trên đất. Đó là một cái móng nhà hai gian đã xây sẵn bằng đá đồi, một hố vôi đã tôi sẵn, họ bảo là hai tấn, nhưng chắc chỉ hơn tấn là cùng. Một đống cát họ bảo là 10 khối, nhưng đã xây móng và mưa trôi đi nhiều, may ra còn năm khối. Đáng nói hơn cả là họ có một ít gỗ, ván để sau này làm nhà. Nhưng khi chúng tôi tới ở thì thấy họ cứ gọi người đến bán gỗ. Tôi đi làm về đã thấy mất hết. Cả đến tấm ván đậy giếng họ cũng cậy lên bán nốt. Lúc này không thể nhịn được nữa, tôi đành yêu cầu họ chuyển đi. Nhưng họ làm gì có chỗ để đi. Cuối cùng, họ phải sang ở nhờ ông bà Sơn - Rồng. Nhà tôi mang tiếng ác là đuổi họ.
Nhiều người bạn của tôi và anh Thọ tới thăm bảo vợ chồng tôi hấp thì mới mua đất nơi đây. Đẹp đâu chẳng thấy chỉ buồn, vắng vẻ, đường đi chẳng có, điện nước thì không. Ngày mưa mà dắt cái xe đạp vào khu này, cây hai bên đường còn quật cả cành lá vào mặt. Ngày bão gió thì sóng biển đánh vào giữa sân. Thế mà chúng tôi còn nai lưng vay mượn trầy trật, chứ đợi mua được nhà ở phố chắc đến đời tám hoánh.
Tôi thì lại sung sướng vì đang vật vờ ở nhờ nơi này nơi nọ, hết nhà số 8 Thương Mại chật chội, nóng bức, khói lò mù mịt lại đến khu văn công tạm bợ, xung quanh rừng rú, một tháng mất hai mươi đồng thuê nhà. Nay được an cư, chả khác nào lên thiên đường.
Ngày cưới, anh hỏi tôi mơ ước gì. Tôi trả lời không cần suy nghĩ: “Em chỉ ước có một căn nhà nhỏ, nhà gianh cũng được. Một cái máy khâu, và trước cửa nhà có một vườn hoa”. Anh bảo: “Sao đơn giản thế, liệu có sợ “ước mơ con đè nát cuộc đời con” không?”. Vậy mà cái “ước mơ con” ấy để thành hiện thực đã phải còng lưng làm chưa xong. Cho nên, dù công nợ, dù ở đây chưa có điện, nước máy, chưa có đường đi lối lại thuận tiện, nhưng tôi hạnh phúc vì ước mơ của tôi đang dần được thực hiện. Anh cũng có cảm giác giống tôi. Anh bảo ở đây yên tĩnh, khí hậu trong lành, sạch sẽ. Đi diễn về anh có nơi để suy ngẫm, viết lách. Đấy cũng là ước mơ của anh.
Tháng 5. 1977 tôi bắt đầu được ở nhà và đất của chính vợ chồng mình. Căn nhà dù làm bằng giấy dầu, tường trát bằng đất, cũng đã thấy sung sướng rồi. Tôi lại chuyển về Thủy Lợi, làm việc cách nhà hai cây số đạp xe. Hàng ngày địu con trên lưng đến nhà trẻ cơ quan. Anh đi bộ sang đoàn làm việc. Hết giờ làm, tôi địu con về. Con vẫn ở trên lưng, còn tôi thì đủ việc: trồng rau, nuôi gà, ngan chừng hai mươi con. Cây quả trong vườn như na, mít, ổi thì phải thu hoạch đi chợ bán, chắt chiu từng xu trả nợ. Vui thì thế, nhưng nghĩ đến nợ lúc nào tôi cũng thấy trăn trở, buồn não ruột.
Trước mắt là khoản nợ nóng của bà Chính phải trả lãi mười phân. Bố anh Thọ ở Nghệ An biết được tình cảnh này, thương vợ chồng tôi lắm. Nhưng tiền dự trữ ông không có. Ông đã vay cô Hương (người định gả cho anh Thọ ngày xưa) ba trăm đồng và đưa sổ lương hưu của ông để hàng tháng cô ấy lĩnh lương ông mà trừ nợ dần. Lương ông được bốn hai đồng một tháng. Sau tám tháng, cô Hương sẽ thu đủ tiền ông nợ, rồi trả sổ lương lại cho ông. Ông đã giải thoát cho vợ chồng tôi một khoản nợ nóng phải trả lãi nguy hiểm. Lòng tôi nhẹ nhàng hơn khi trả được khoản này. Nhưng kinh tế gia đình trở nên eo hẹp hơn. Với thu nhập 120 đồng/ tháng mà sinh hoạt cho năm người: bà ngoại, bố chồng, hai vợ chồng và một đứa con trong thời kỳ bao cấp thật khó khăn, vất vả. Tôi còn phải chắt chiu để trả những khoản nợ tiếp theo nữa.
Vài tháng sau, một hôm ra đường thấy cô Thu (bán thịt lợn, vợ anh Ngọc Hưng - bạn anh Thọ) chặn xe đạp tôi lại, hất hàm bảo:
- Này, trả nợ đi chứ!
Cái vụ mua nhà này, tôi nợ Thu ba mươi đồng. Tôi rụt rè nói:
- Tôi chưa có tiền.
Thu liền nổi cơn lôi đình, vứt ngay bị cói trên vai xuống đường nhựa đánh “phạch” một cái, rồi giở ngay giọng kẻ chợ ra:
- Đ. mẹ nhà mày chứ! Khi mày cần thì bố mày cho vay. Bây giờ bố mày cần thì lại bảo chưa có.
Mọi người đi đường dừng lại xem. Tôi bẽn lẽn dắt xe đạp vượt qua đám đông, phi đi. Cảm giác nhục nhã, ê chề dâng ngập lòng. Chỉ vì nghèo mà phải vay tiền. Tôi cũng không ngờ gia đình Hưng Thu với nhà tôi vốn là bạn bè thân thiết, vậy mà khi dính đến tiền một cái là họ cư xử thô bỉ như vậy. Tất nhiên, ít hôm sau, nhà tôi phải thu xếp trả tiền cho Thu. Sau vài tháng, mẹ tôi tới chơi.
Tôi mừng lắm. Nhưng mừng chưa được mấy tiếng đồng hồ thì mẹ bảo: “Các em cần tiền, ra hỏi chị xem chị đã thu xếp được thì trả cho chúng nó”.
Tôi sững người. Vay mua đất mua nhà mà chưa đầy sáu tháng đã đòi thì lấy gì trả. Tôi nói khó với mẹ. Mẹ bảo: “Chưa có thì vay tạm chỗ khác cho mẹ đem về, các em cần lắm”.
Lúc ấy tôi mới ớ người hiểu cái hành động của mẹ. Khi mẹ tới, tôi vội chộp gà úp vào bếp để làm thịt đãi mẹ. Ai ngờ mẹ lén vào bếp thả gà ra. Mẹ cần tôi vay tiền ai đó để đem về chứ mẹ cần gì ăn uống. Tôi lo lắng chưa biết tính sao thì có ông cụ Bùi bên hàng xóm sang chơi. Nghe tôi tâm sự nỗi lo của mình, cụ sốt sắng bảo:
- Mợ đừng lo. Tôi giúp mợ! Tôi cho mợ vay một trăm đồng. Mỗi tháng mợ chỉ cần trả tôi mười đồng. Mười tháng sau là mợ sẽ hết nợ. Mợ trả cho bà đây tám mươi đồng nợ, còn hai mươi đồng mợ mua tí gạch xây cái nhà con con ở tạm. Sau này có tiền, cái nhà con ấy mợ làm bếp. Thế là tôi giúp mợ rồi đấy.
Tôi như gặp ông Bụt trong truyện “Tấm Cám” vậy. Không hiểu sao lại có người tốt đến thế. Ông cụ cho tôi vay như vậy khác nào cho tôi tiền. Đúng là ở hiền gặp lành. Chiều hôm ấy, ông Bùi đem tiền sang cho vay luôn nhưng dặn: “Mợ không được cho thằng con tôi biết chuyện này. Nó sống bất hiếu lắm, không đưa tiền cho nó, nó còn đòi cầm cái mã tấu của tôi để chém tôi đấy”.
Mẹ tôi có tiền thì về ngay, không ngủ lại. Tôi đạp xe lai mẹ mười hai cây số sang bên Hồng Gai để mẹ đi tàu thủy về Hải Phòng.
Trong căn nhà tranh nhỏ tưởng chừng như êm ấm nhưng đầy lo toan, sóng gió. Tôi vất vả vô cùng, nơi ở chật chội là thế. Nhà chỉ có một cái giường cưới của vợ chồng tôi nhưng phải nằm bốn người. Bà cố ngoại trong, đến anh Thọ, rồi đến hai mẹ con tôi nằm ngoài cùng, tiện việc cho con ị, đái ban đêm. Ngày ấy không có bỉm như bây giờ. Nếu đêm con đái dầm thì nước chảy tong tong qua kẽ chiếu xuống nền nhà. Chỗ chiếu ướt ấy tôi phải xoay ra đấy nằm, lăn bé vào trong. Lúc này tôi mới ngấm câu ca các cụ: “Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo phần con”. Còn bên kia tường là tấm ván được làm từ cánh cửa, kê thành cái giường con cho bố chồng tôi nằm. Ban ngày anh đi sang đoàn. Tôi địu con đi làm theo để gửi nhà trẻ cơ quan. Ở nhà còn hai người già là bố anh và bà ngoại tôi. Năm giờ sáng, tôi dậy nấu cơm cho cả nhà và cho lợn, gà, ngan ăn. Sau đó, cho cơm vào cặp lồng (ngăn bé trên), còn ngăn dưới là cháo của Quỳnh Mai, rồi đem đi làm. Có hôm trời mưa to, giữa cơn mưa cũng phải đội vải mưa đi, không thể muộn giờ làm một phút. Hai mẹ con địu nhau đến giữa đê, đường trơn, ngã nhào, xe đạp đổ kềnh, quần áo bê bết đất, cháo cơm đổ hết xuống đường đê. Tôi vẫn phải đến cơ quan. Mượn áo quần của cô Ly giữ trẻ để thay. Trưa đến, phải xin cháo, cơm ở khu tập thể ăn cho qua ngày.
Có ngày tập tự vệ thì phải sáu giờ tối mới được về. Người mệt rã rời vì đói, vì thiếu ngủ, vì vất vả. Có hôm ném quả lựu đạn gỗ mà chỉ đủ sức ném xa hai, ba mét. Các bạn đồng nghiệp bảo: “Chị Thủy ném thế thì giặc đâu chết, chị chết trước đấy”. Địu con về đến dốc nhà Thanh - Bích ở đầu xóm, tôi đã khuỵu chân xuống, không muốn dắt xe qua nữa. Nhưng khuỵu sao được, phải cố mà đi!
Về đến nhà đã tối, địu con nấu cơm. Bà ngoại không hộ việc gì. Bố chồng cũng chẳng thấy có việc gì để giúp. Chồng thì hôm về muộn, hôm về sớm. Nhưng nếu có ở nhà thì anh chỉ đọc sách chứ không nấu cơm. Ngày xưa, chưa có nồi cơm điện như bây giờ, phải nấu bằng củi và vần cơm bằng than củi nên ai cũng ngại. Có hôm trời nắng, về đến nhà thấy nồi cơm vứt cạnh thùng nước, khô rang, gà ngan rỉa bẩn thỉu, khô khốc, khó mà rửa sạch. Bát đũa bẩn ngâm đầy chậu. Ngan, gà trèo qua trèo lại còn ỉa cả lên đó. Không chịu nổi nữa, tôi trách ông và cụ ngoại: “Sao không nỡ rửa đi cho con. Mà không rửa thì phải đổ nước vào ngâm chứ để thế này sao nấu được cơm ăn”. Bà ngoại tôi bảo: “Tôi là bà cái Thủy, sao tôi lại phải làm như con ở?”. Bố chồng tôi cũng nói: “Tôi là bố thằng Thọ chứ không phải con ở nhà này!”.
Tôi không dám trách ai, lẳng lặng đi làm. Trong cảnh như vậy, bà ngoại tôi không thích ở với tôi nữa. Mẹ tôi đón bà về Hải Phòng, bà cũng không đồng ý. Bà đòi đi Hà Giang ở với cháu gọi bà bằng cô ruột. Tôi đành để bà đi. Cứ ba tháng một lần tôi lại đi lĩnh lương tuất cho bà. Vì bà không có con cái nên khi ông mất thì anh chị Thuần ở Thương binh Xã hội thị xã đã xin cho bà được tiêu chuẩn ấy. Cùng với việc đổi ba tháng tem gạo, được ba mươi cân, tôi gửi bưu điện lên Hà Giang cho bà. Nhà chỉ còn lại bốn người: bố chồng, chồng và hai mẹ con tôi.