H
ai từ ấy kéo dài khoảng mười tám phân và chạy ngang bụng cô gái, phía trên rốn khoảng ba phân.
Mặc dù có lẽ hắn đã dùng chất độc chứ không phải mực, nhưng vết thương mới tấy, sưng vù và lởm chởm ấy vẫn khá dễ đọc.
“Được rồi,” Rhyme nói, “Lần thứ hai. Còn đường viền hình vỏ sò ở trên và dưới. Không biết chúng là cái gì nhỉ?”
Sachs nhận xét, “Chúng không sưng như các chữ cái. Có lẽ trong đó không có chất độc. Trông chúng chỉ như vết thương chứ không phải hình xăm. À, Rhyme này, nhìn vào các chữ cái xem.”
“Xem chúng được vết đẹp thế nào à?”
“Chính xác. Thư pháp. Hắn giỏi đấy. Hắn biết việc mình đang làm.”
“Và còn một điểm nữa. Chắc hẳn việc này phải mất thời gian. Hắn hoàn toàn có thể viết vội. Hay tiêm thẳng chất độc vào cô ấy. Hoặc bắn chết luôn cũng xong. Trò chơi của hắn là gì?”
Sachs chợt nghĩ. “Và nếu việc ấy kéo dài lâu, có nghĩa là cô ấy phải chịu đau đớn một thời gian dài.”
“Phải, em có thể thấy phản ứng đau đớn nhưng anh có cảm giác là sau này cô ấy mới phải chịu đau. Không thể có chuyện cô ấy tỉnh táo trong lúc hắn đang viết thông điệp được. Kể cả nếu cô ấy có không cố trốn thoát thì những cử động vô ý thức cũng sẽ làm hỏng tác phẩm của hắn. Không, hắn đã khống chế cô ấy bằng cách nào đó. Trên đầu có vết thương nào không?”
Cô xem xét đầu của cô gái thật cẩn thận và nhìn dưới áo sơ mi của cô ấy, cả mặt trước lẫn mặt sau. “Không. Và em không thấy dấu hiệu gì của súng Taser cả. Không có vết phồng nào của súng điện… À nhưng Rhyme, anh thấy không?” Cô chỉ vào một chấm đỏ nhỏ xíu trên cổ cô gái.
“Vết tiêm à?”
“Em nghĩ vậy. Em đang đoán là thuốc mê, không phải thuốc độc. Không có dấu hiệu bị sưng hay tổn thương nào thường thấy do chất độc gây ra.”
“Xét nghiệm máu sẽ cho chúng ta biết.”
Sachs chụp ảnh vết thương rồi cúi xuống thấm vùng da ấy cẩn thận để lấy được dấu vết. Sau đó cô làm tương tự với phần còn lại trên cơ thể cô gái và mặt đất quanh cô. Gần như chắc chắn một thủ phạm tinh ranh như thế này sẽ mang găng tay – nhìn bên ngoài thì rõ là như vậy. Tuy nhiên những bằng chứng vô giá vẫn có thể bị truyền sang nạn nhân hoặc hiện trường, kể cả từ một kẻ đeo găng tay và mặc đồ bảo hộ đi chăng nữa.
Edmond Locard, một nhà tội phạm học người Pháp sống ở thế kỉ trước đã tổng kết lại Quy tắc Trao đổi rằng: mỗi lần có một tội ác xảy ra, luôn có sự trao đổi vật chứng giữa tội phạm và hiện trường, hoặc tội phạm và nạn nhân. Vật chứng ấy (mà ông nhắc tới dưới tên “bụi”) có thể vô cùng khó phát hiện và thu thập nhưng nó vẫn tồn tại, nó dành cho một nhà khoa học pháp y thông thái và sáng tạo.
“Có gì đó lạ lắm, Rhyme.”
“Lạ à?” Có chút khinh khỉnh với từ ngữ bình dân ấy. “Nói tiếp đi, Sachs.”
“Em chỉ đang dùng một trong hai cái đèn rọi của cảnh sát – chiếc kia đã chĩa vào đường hầm rồi. Nhưng trên mặt đất lại có hai cái bóng.” Cô nhìn lên và đi một vòng chậm rãi để nhìn cho rõ. “À, có một cái đèn nữa gần với trần, nằm giữa hai cái ống ấy. Trông nó giống một cây đèn pin.”
“Không phải do những cảnh sát đầu tiên bỏ lại à?”
“Cảnh sát hay nhân viên y tế nào mà lại bỏ đèn Maglite của họ chứ?”
Những chiếc đèn pin màu đen mà tất cả cảnh sát và lính cứu hỏa mang theo bên mình là vật vô giá – nó mang lại nguồn sáng tốt và còn được dùng như một vũ khí ghê gớm, có thể đập gãy cả xương.
Nhưng cô để ý thấy nó không phải là một trong những loại đắt tiền đó. Chiếc đèn này rẻ tiền, làm bằng nhựa.
“Nó được dán vào ống. Băng dính. Sao hắn lại để lại cái đèn ở đây nhỉ, Rhyme?”
“Hóa ra là vậy.”
“ Cái gì cơ?” cô hỏi.
“Đó là cách mà người quản lí cửa hàng tìm được cái xác. Cây đèn pin. Thủ phạm của chúng ta muốn đảm bảo là chúng ta tìm được thông điệp từ nhà tài trợ.”
Sachs thấy lời lẽ của anh có vẻ cợt nhả nhưng cô vẫn luôn nghi ngờ rằng đa phần thái độ cục cằn và những lời châm biếm của Rhyme chỉ là một cơ chế tự phòng vệ. Tuy nhiên, cô tự hỏi phải chăng anh đã nâng cao tấm rào chắn của mình hơn mức cần thiết.
Cô không thích bao bọc trái tim mình nhiều như thế.
“Em sẽ thu thập nó cuối cùng,” Sachs bảo anh. “Từng chút ánh sáng đều đáng quý.”
Sau đó cô bắt đầu kẻ ô vuông, cách gọi của Rhyme cho việc khám nghiệm hiện trường. Đây là cách tiếp cận toàn diện nhất để tìm kiếm vật chứng và đánh giá những sự kiện đã xảy ra. Kĩ thuật này bao gồm việc chậm rãi đi ngang hiện trường, rồi vẫn giữ trục đó và bước sang trái hoặc phải một bước rồi quay lại đầu bên kia. Làm việc này liên tục đến khi đã đi hết toàn bộ không gian. Sau đó hãy quay một góc chín mươi độ và làm lại toàn bộ các bước một lần nữa, theo hướng vuông góc. Giống như cắt cỏ hai lần vậy.
Mỗi bước chân bạn sẽ dừng lại để nhìn sang hai bên và từ trên xuống dưới.
Bạn cũng phải ngửi mùi nữa, mặc dù trong trường hợp này Sachs không thể phát hiện được gì ngoài mùi nôn của Chloe. Không có cả mùi metan lẫn mùi phân, điều này làm cô ngạc nhiên khi nghĩ đến việc một trong mấy cái ống ở đây nối với hệ thống xử lí nước thải của thành phố.
Cuộc kiểm tra không thu được gì nhiều. Dù thủ phạm có mang đến đồ vật gì đi nữa, hắn cũng đã mang đi – ngoài cây đèn pin, còng tay và những sợi băng dính. Cô cũng tìm được một vật, một mẩu giấy vàng nhạt bị vo viên.
“Cái gì đó, Sachs? Anh nhìn không rõ lắm.”
Cô giải thích.
“Cứ để nó như thế đi; chúng ta sẽ mở ra ở đây. Biết đâu có dấu vết gì bên trong. Không biết nó có phải của cô ấy không.”
Cô ấy. Nạn nhân.
Chloe Moore.
“Hoặc có thể là từ thủ phạm, Rhyme,” Sachs nói thêm. “Em đã tìm thấy những sợi trông giống như báo in hoặc giấy bên dưới móng tay của cô ấy.”
“À, có thể hữu ích đấy. Họ đã vật lộn à? Có phải cô ấy đã tóm được gì đó của hắn? Hoặc hắn muốn thứ gì từ cô ấy và giật nó ra khỏi ngón tay của Chloe – trong lúc cô ấy cố bám lấy nó? Câu hỏi, câu hỏi, câu hỏi.”
Dùng thêm những cái lăn dính và chiếc máy hút bụi cầm tay loại nhỏ, Sachs tiếp tục cuộc tìm kiếm. Một khi đã đóng túi và dán nhãn những mẫu vật này, cô sẽ dùng một máy hút khác và một cây lăn mới để thu thập vết tích từ những chỗ ở xa nhất có thể từ nơi Chloe đang nằm và nơi nghi phạm đã bỏ đi. Những thứ đó được gọi là mẫu so sánh – vật chất tự nhiên từ khu vực này. Nếu phân tích trong phòng thí nghiệm cho thấy gì đó, chẳng hạn loại đất giàu cao lanh gần một trong những dấu chân của nghi phạm mà nó lại không khớp với mẫu vật so sánh, họ có thể kết luận rằng nhiều khả năng hắn sống hay làm việc hay có mối liên hệ nào khác với một địa điểm đầy đất sét. Một bước nhỏ tiến đến việc tìm thủ phạm… nhưng vẫn là bước tiến.
“Anh không thấy có nhiều dấu giày hay ủng lắm, Sachs.”
Cô đang nhìn xuống chỗ hắn đã đứng hoặc đi lại. “Em có thể tìm được vài dấu nhưng chúng không giúp ích nhiều đâu. Hắn mang cả bao giày.”
“Thôi nào, người anh em,” nhà tội phạm học lẩm bẩm.
“Em sẽ lăn chỗ dấu chân để tìm dấu vết nhưng chụp tĩnh điện cũng không ích gì đâu.”
Cô đang nhắc đến việc dùng những bản nhựa để lấy dấu giày, giống như cách người ta lấy dấu vân tay vậy. Kết quả mẫu đế giày không chỉ gợi ý cỡ giày mà còn có thể xuất hiện trong bộ dữ liệu khổng lồ về các loại giày dép mà Rhyme đã tạo ra nhiều năm trước ở NYPD. Đến tận bây giờ cơ sở dữ liệu ấy vẫn được duy trì.
“Và em phải nói chính hắn cũng mang theo một cây lăn có băng dính. Có vẻ như hắn đã quét nhiều nhất có thể.”
“Anh ghét nhất bọn tội phạm thông minh.”
Không, anh không ghét, Sachs trộm nghĩ. Anh chỉ ghét bọn ngu ngốc thôi. Những kẻ xấu thông minh luôn là một thách thức và thú vị hơn nhiều. Sachs đang cười bên dưới khẩu trang N95. “Em sắp tắt tiếng đây, Rhyme. Kiểm tra các đường ra và vào. Lỗ cống.”
Cô lôi chiếc đèn Maglite của mình ra, bật lên và tiếp tục đi theo đường hầm về phía cầu thang dẫn lên lỗ cống. Cô để ý thấy mình không còn chút đau đớn nào trong xương khớp như đã bị cả thập kỉ nay; cuộc phẫu thuật gần đây đã có tác dụng kì diệu. Chiếc bóng do ánh đèn halogen sau lưng tạo ra đang kéo dài trước mặt cô như dáng hình méo mó của một con rối. Mặt đất bên dưới lỗ cống ẩm ướt. Điều này càng nhấn mạnh đây chính là cách hắn đã vào và ra khỏi đường hầm. Cô ghi lại thông tin này rồi đi tiếp vào các nhánh tối hơn bên kia.
Mỗi bước chân tiếp theo càng làm cô bất an hơn. Lần này không phải vì chứng sợ chỗ kín – đường hầm này khó chịu nhưng rộng rãi hơn nhiều so với cái lỗ đi vào. Không, sự bất an của cô là do cô đã nhìn thấy tác phẩm của thủ phạm – hình xăm, những vết cắt, thuốc độc. Sự kết hợp giữa trí thông minh, mưu đồ và cách lựa chọn vũ khí kì quái của hắn chỉ ra rằng hắn sẽ rất vui khi nấn ná ở lại và cố ngăn chặn những kẻ truy đuổi mình.
Tay trái cô cầm đèn pin trong khi tay phải quanh quẩn quanh khẩu Glock. Sachs đi tiếp xuống đường hầm ngày càng tối om, lắng nghe tiếng bước chân, hơi thở của kẻ tấn công, tiếng cạch và tạch của những khẩu súng sắp xả đạn hay tiếng gạt chốt an toàn nào đó.
Không có tiếng gì như vậy, mặc dù cô có nghe tiếng rì rầm từ một hai ống dẫn hoặc những chiếc hộp IFON màu vàng, dù chúng là gì đi nữa. Một tiếng ùng ục nhẹ của ống nước.
Rồi một tiếng roạt, một thoáng chuyển động.
Khẩu Glock được rút ra, tay trái nắm chặt đèn Maglite, cánh tay trái đỡ bàn tay cầm súng. Mũi súng hướng theo chiều ánh sáng. Quét, soi.
Ở đâu?
Mồ hôi cô lại túa ra, một tiếng thịch trong tim.
Nhưng lần này rất khác với lần tim đập hoảng loạn vì chứng sợ không gian kín. Nó không phải là nỗi sợ chua chát. Nó là sự háo hức. Đây là cuộc săn. Và Amelia Sachs sống vì cảm giác này.
Cô đã sẵn sàng, ngón tay đã rời chốt an toàn, chuyển sang cò súng nhưng chỉ đặt hờ; cô chỉ mất hơn một hơi thở là khai hỏa khẩu Glock.
Nhìn khắp lượt…
Ở đâu? Ở đâu?
Rắc…
Cô ngồi thụp xuống.
Một chú chuột thập thò chui ra từ sau một cây cột chống, nó nhìn về phía cô với chút lo ngại rồi quay đầu lủi đi.
Cảm ơn mày, Sachs nghĩ khi nhìn theo hướng chạy của chú chuột – về phía đầu bên kia đường hầm. Nếu một động vật gặm nhấm có thể thản nhiên đi trên mặt đất như thế thì không có nhiều khả năng cô bị mai phục. Cô tiếp tục đi. Thêm khoảng sáu mươi mét nữa, cô bắt gặp một bức tường gạch. Không có dấu chân nào ở đây – dù là dấu bình thường hay đi bao giày – vậy là thủ phạm đã không lang thang về phía này. Cô quay lại chỗ cầu thang.
Cô lấy chiếc điện thoại đang cất trong bao nhựa tránh nhiễu hiện trường ra và bật ứng dụng bản đồ GPS1. Cô thấy mình đang đứng bên dưới phố Elizabeth, về phía đông, gần một vỉa hè.
1 GPS là viết tắt của Global Positioning System, tạm dịch là “Hệ thống định vị toàn cầu.”
Sachs vặn lớn âm lượng tai nghe.
“Em đang ở dưới lỗ cống, Rhyme.” Cô giải thích nó nằm ở đâu và gần như chắc chắn đây là lối hắn đã vào, bởi vì đất chỗ này khá ẩm; Cô đoán có thể nắp cống đã bị kéo ra trong một vài giờ gần đây. “Dưới này có bùn.” Một tiếng thở dài. “Nhưng lại không có dấu chân nào. Hiển nhiên rồi. Chúng ta sẽ để Lon thẩm vấn các cửa hàng và căn hộ quanh khu này, xem có ai trông thấy thủ phạm không.”
“Anh sẽ gọi cho anh ta. Và thu luôn cả các đoạn CCTV2 nữa nếu có.” Rhyme luôn hoài nghi về các nhân chứng. Anh tin rằng trong hầu hết trường hợp họ đều mang lại nhiều rắc rối hơn là giúp ích. Họ nhìn nhầm, có trí nhớ tồi – dù là vô tình hay cố ý – và họ cũng sợ phải dính vào sự việc. Một hình ảnh số còn đáng tin cậy hơn nhiều. Tuy nhiên đây không nhất thiết là ý kiến của Sachs.
2 CCTV là viết tắt của Closed Circuit Television, tạm dịch là “Camera an ninh.”
Cô dùng gạc thấm các thanh ngang lúc trèo lên rồi thả những miếng gạc dính đầy các thứ đó vào túi nhựa đựng bằng chứng.
Ở những bậc thang trên cùng, cô dùng cây lăn lăn mặt dưới của nắp cống, rồi đưa một nguồn sáng thay thế (hay đèn ALS3) nhỏ chiếu vào để lấy dấu vân tay trên bề mặt. Nguồn sáng thay thế là những chiếc đèn dùng các màu khác trong dải quang phổ nhìn thấy được (như xanh dương hoặc xanh lục) kết hợp với các bộ lọc để thấy được những hình ảnh không thể nhìn thấy dưới ánh đèn neon hoặc ánh sáng ban ngày. Đèn ALS cũng bao gồm cả ánh sáng không nhìn thấy được, như tia cực tím, nó đảm bảo một vài dấu vết nào đó sẽ phát sáng.
3 ALS là viết tắt của Alternative Light Source, tạm dịch là “Nguồn sáng thay thế.”
Tất nhiên, lần quét sáng của cô cũng không cho thấy dấu vân tay hay bằng chứng nào khác từ nghi phạm. Cô kiểm tra sức nặng của tấm nắp cống; cô chỉ có thể khẽ dịch chuyển nó một chút. Cô ước chừng nó nặng khoảng năm mươi cân khó đẩy mở nhưng không phải là không thể với một người khỏe, mạnh.
Cô nghe thấy tiếng xe cộ đi trên đầu, tiếng xuỵch khi lốp xe nghiến qua lòng đường ẩm ướt. Cô chiếu đèn thẳng lên, nhìn qua cái lỗ, nơi mà các công nhân gài móc vào để kéo nắp cống lên. Tự hỏi ở đây liệu có biểu tượng nào gợi ý cho họ về một nhãn hiệu hay công cụ đặc biệt mà thủ phạm đã dùng hay không. Không có gì.
Đúng lúc ấy, một con mắt xuất hiện qua cái lỗ.
Chúa ơi… Sachs thở dốc.
Cách đó vài phân, trên con phố phía trên cô, ai đó đang ngồi xổm và nhìn xuống cô qua cái lỗ nhỏ trên nắp cống. Trong một giây không có gì xảy ra; rồi con mắt ấy hẹp lại, như thể ai đó – cô cảm giác đó là đàn ông – khẽ nheo mắt. Có thể là đang cười, có thể là lo sợ, hay tò mò tại sao lại có ánh đèn pin chiếu ra từ bên dưới một nắp cống ở SoHo.
Cô quay người ngay lập tức vì nghĩ hắn đang gí một họng súng lục vào cái lỗ và bắt đầu bắn. Chiếc đèn Maglite rơi xuống khi cô dùng cả hai tay bám lấy bậc thang để khỏi ngã.
“Rhyme!”
“Sao thế? Có chuyện gì? Em đang di chuyển nhanh quá.”
“ Có ai đó bên trên nắp cống. Anh đã gọi Lon chưa?”
“Vừa xong. Em nghĩ đó là thủ phạm à?”
“Có thể. Gọi tổng đài đi! Cử ai đó đến phố Elizabeth ngay lập tức!”
“Anh đang gọi đây, Sachs.”
Cô ấn một tay dưới đáy nắp cống và đẩy lên. Một. Hai. Dùng tất cả sức lực.
Phiến thép nhấc lên chừng hai phân. Nhưng không hơn.
Rhyme nói, “Anh gọi được Lon rồi. Anh ta đang cử các cảnh sát đến. Cả đội ESU1 nữa. Họ đang trên đường, sắp tới nơi.”
1 ESU là viết tắt của Emergency Service Unit, tạm dịch là “Đội ứng phó khẩn cấp.”
“Em nghĩ hắn đi rồi. Em đã thử mở cái nắp, Rhyme. Không mở được. Chết tiệt. Em không mở được. Em đã nhìn thẳng vào hắn. Chắc chắn là thủ phạm đấy. Làm gì có ai tự dưng quỳ xuống giữa đường rồi nhìn qua nắp cống trong một ngày như hôm nay chứ?”
Cô thử một lần nữa, nghĩ rằng có thể hắn đã đè lên cái nắp và chính việc đó đã ngăn cô đẩy nó ra. Nhưng không phải, chỉ bằng một bàn tay của cô thì không tài nào di chuyển nổi cái nắp.
Khỉ thật.
“Sachs?”
“ Nói đi.”
Rhyme nói, “Một cảnh sát đã trông thấy ai đó trên nắp cống, hắn mặc chiếc áo khoác ngắn màu xám đậm và đội mũ len trùm đầu. Hắn đã bỏ chạy. Biến mất trong đám đông trên phố Broadway. Nam da trắng. Khổ người gầy đến trung bình.”
“Chết tiệt!” Cô lẩm bẩm. “Chính là hắn! Nếu không sao phải bỏ chạy? Bảo ai đó đẩy cái nắp lên đi, Rhyme!”
“Nghe này, có khá nhiều người đang đuổi theo hắn rồi. Em cứ tiếp tục kẻ ô vuông. Đó mới là ưu tiên của chúng ta.”
Tim cô đập thình thịch, cô đẩy lòng bàn tay vào nắp cống lần nữa. Dù vô lí nhưng cô vẫn tin rằng nếu mình có thể trồi lên mặt đất, cô sẽ tìm được hắn, kể cả khi người khác không thể.
Cô đã trông thấy mắt hắn. Cô đã trông thấy cái mi mắt nheo lại ấy.
Cô tin rằng thủ phạm đã cười với cô, chọc tức cô bởi cô không đẩy nổi cái nắp cống.
Đồng tử của hắn màu gì? Cô tự hỏi. Xanh lá, xám hay nâu? Cô đã không nghĩ đến chuyện ghi nhớ màu mắt. Sơ suất này làm cô tức điên.
“Anh vừa chợt nghĩ ra một chuyện.” Rhyme mang cô quay lại hiện thực.
“Chuyện gì?”
“Chúng ta biết đó là cách hắn đã vào trong đường hầm – chui qua lỗ cống. Và điều đó có nghĩa là hắn phải làm giả một khu vực đang thi công. Hắn sẽ phải dựng chóp ngăn và khoanh vùng bằng băng dính hay một dạng rào chắn gì đó. Cái đó có thể xuất hiện trên video.”
“Hoặc một nhân chứng có thể đã trông thấy.”
Sachs trèo xuống thang và quay lại với nạn nhân.
Cô đã khám nghiệm nhanh việc có hay không tội ác tình dục với cơ thể Chloe nhưng giờ cô đang dùng đèn ALS chiếu trên cô gái để tìm các dấu vết của một trong ba chữ S xuất hiện trong hầu hết các vụ tấn công tình dục – tinh trùng (semen), mồ hôi (sweat) và nước bọt (saliva).
Dù không có cả ba thứ trên nhưng rõ ràng là hắn đã dùng những ngón tay đeo găng chọc vào da cô gái – hay ít nhất là vùng bụng, cánh tay, cổ và khuôn mặt cô. Các phần khác trên cơ thể không có biểu hiện gì của việc đụng chạm.
Cô dùng đèn chiếu trên phần còn lại của hiện trường – từ cái lỗ cống đến giỏ bánh mì – nhưng không tìm được gì.
Cô chỉ còn mỗi một việc phải làm là lấy chiếc đèn pin mà nghi phạm đã bỏ lại như một ngọn hải đăng.
“Sachs,” Rhyme gọi.
“Em nghe?”
“Sao chúng ta không nhờ các công nhân thành phố mở nắp cống và em sẽ đi ra bằng đường ấy nhỉ? Đằng nào em chẳng phải kiểm tra chỗ ấy trên phố. Chúng ta biết đó là cách hắn đi xuống – và hắn lại vừa ở đó khoảng năm phút trước. Có thể có chút dấu vết nào đó.”
Nhưng cô biết là anh đang gợi ý điều này để cô có thể tránh được đường hầm nhỏ hơn.
Chiếc quan tài hình ống…
Sachs nhìn lại cái dạ dày đen sì kia. Giờ trông nó còn nhỏ hơn nữa. “Cũng hay đấy, Rhyme. Nhưng em nghĩ em sẽ ra bằng đường đã đi vào.”
Cô đã bị nỗi sợ đánh bại một lần; cô sẽ không để nó chiến thắng lần này.
Dùng một chỗ mép tường chìa ra để làm bàn đạp, cô bước lên đó và đẩy mình lên ngang tầm với chiếc đèn pin của nghi phạm. Cô lôi kéo phẫu thuật từ trong túi ra và cắt cái băng dính.
Trong lúc kéo nó xuống, cô làm rơi ra một vốc bụi màu xám, mà đột nhiên cô hiểu ra đó chính là cái bẫy thủ phạm đã gài để dành cho các cảnh sát khám nghiệm hiện trường. Đó là lí do hắn để lại ánh sáng! Thứ bụi ấy rơi thẳng vào mắt cô và trong lúc cuống cuồng gạt nó đi, cô đã làm tung chiếc khẩu trang N95 và hít trọn một hơi chất độc.
“Không!”
Cô ho sặc sụa và càng nuốt vào thêm chất bột cay xè. Ngay lập tức cơn bỏng rát bắt đầu. Cô ngã ra đất và lảo đảo lùi lại, suýt vấp vào xác Chloe.
Giọng Rhyme đang vang trong tai cô. “Sachs! Cái gì đó? Anh không thấy gì cả.”
Cô vật lộn để hít vào, để loại bỏ chất độc khỏi hai lá phổi. Những lưỡi câu đang đốt cháy khí quản, mắt và mũi cô. Cô lột mặt nạ ra và nhổ nước bọt, biết rằng mình đang làm nhiễu hiện trường nhưng cô không thể dừng lại được.
Rhyme đang hét lên. Cô không nghe được rõ ràng nhưng cô tin rằng anh đang nói, có thể là vào điện thoại của mình, “Cho nhân viên y tế xuống đó! Ngay bây giờ!” Và “Tôi không quan tâm.” Và “Kiềm chế độc. Nhanh lên.”
Nhưng rồi cô không còn nghe gì nữa ngoài tiếng nôn ọe của chính mình.