L
incoln Rhyme đang sốt ruột chờ đợi.
Anh hỏi Thom, “Còn Amelia?”
Trợ tá cúp máy điện thoại bàn. “Tôi không gọi được.”
“Chết tiệt thật. Cậu bảo không gọi được là sao? Bệnh viện nào?”
“ Đa khoa Manhattan.”
“Gọi họ lần nữa xem.”
“Tôi vừa gọi rồi. Tôi không thể kết nối đường dây chính. Có vấn đề gì đó.”
“Vớ vẩn. Đấy là bệnh viện mà. Gọi chín một một ấy.”
“Anh không thể gọi vào số cấp cứu để tìm hiểu tình trạng của một bệnh nhân được.”
“Tôi sẽ gọi.”
Nhưng ngay lúc ấy chuông cửa trước reo. Rhyme cục cằn ra lệnh cho Thom “trả lời cái chuông chết dẫm” ấy và một lát sau anh nghe tiếng bước chân ở tiền sảnh.
Hai cảnh sát hiện trường, những người đã hỗ trợ cho Sachs ở vụ án mạng tại cửa hàng Chez Nord bước vào phòng khách, mang theo những thùng đựng sữa lớn, bên trong chứa đầy các túi đựng bằng chứng – cả bằng giấy và nhựa. Rhyme quen người phụ nữ, Thanh tra Jean Eagleston, chị ta gật đầu chào và anh cũng đáp lại bằng một cái gật đầu. Cảnh sát còn lại, một người có thân hình to lớn, nói, “Đội trưởng Rhyme, rất vinh hạnh được làm việc cùng anh.”
“Đã hết tại nhiệm,” Rhyme lẩm bẩm. Anh để ý thấy thời tiết chắc hẳn đang tệ hơn – áo khoác của hai người này đều lấm chấm băng và tuyết. Anh cũng thấy họ đang quấn các vật chứng trong giấy bóng kính. Tốt.
“Amelia thế nào rồi?” Eagleston hỏi.
“Chúng tôi chưa biết gì hết,” Rhyme làu bàu.
“Có gì mà chúng tôi có thể làm được nữa thì cứ gọi nhé,” đồng sự nam to béo của chị nói. “Anh muốn đặt chúng ở đâu?” Một cái gật đầu về phía mấy chiếc thùng.
“Đưa chúng cho Mel.”
Rhyme đang nhắc đến thành viên cuối cùng của đội, anh ta chỉ vừa mới tới nơi.
Gầy gò và có phong thái của người đã về hưu, Thanh tra Mel Cooper của NYPD là một nhân vật nổi tiếng trong phòng thí nghiệm hiện trường. Rhyme sẽ gây sức ép với bất kì ai, kể cả ngài thị trưởng, chỉ để lôi Cooper về cho anh, đặc biệt là trong những vụ án như thế này, khi độc dược dường như là loại vũ khí gây án. Với các bằng toán học, vật lí và hóa học hữu cơ, Cooper là người hoàn hảo cho cuộc điều tra này.
Kĩ thuật viên hiện trường gật đầu chào Eagleston và đồng sự của chị, giống như anh ta, hai người họ cũng làm việc ở tổng bộ khám nghiệm hiện trường của NYPD tại Queens. Bất chấp thời tiết xấu và cái lạnh trong phòng khách, Cooper vẫn mặc một chiếc áo sơ mi trắng cộc tay cùng quần ống rộng màu đen, làm anh ta có vẻ ngoài của một vị trưởng lão Mormon đang đi viễn chinh hay một giáo sư khoa học của trường cấp ba. Anh đi đôi giày hiệu Hush Puppies. Mọi người thường không ngạc nhiên khi biết rằng anh ta sống chung với mẹ; mà họ chỉ kinh ngạc khi gặp gỡ cô bạn gái cao to và xinh đẹp người Bắc Âu của anh, một giáo sư thuộc trường đại học Columbia. Cả hai là những nhà quán quân khiêu vũ cổ điển.
Trong bộ áo choàng phòng thí nghiệm, găng tay latex, kính bảo hộ và mặt nạ, Cooper chỉ vào một chiếc bàn giám định vật chứng còn trống. Các đồng nghiệp của anh ta đặt mấy chiếc thùng carton lên đó và gật đầu chào, rồi rời khỏi dinh thự, một lần nữa lao mình vào cơn bão.
“Cậu nữa, lính mới. Xem chúng ta có gì nào.”
Ron Pulaski cũng mặc bộ bảo vệ tương tự và bước đến bên bàn để giúp sức.
“Cẩn thận đấy,” Rhyme nói một điều không cần thiết, vì Pulaski đã làm việc này cả trăm lần và không ai cẩn thận với các vật chứng hơn cậu ta.
Nhưng nhà tội phạm học đang bị phân tâm; những suy nghĩ của anh quay về với Amelia Sachs. Tại sao cô vẫn chưa gọi? Anh nhớ đã trông thấy một thứ bột đổ xuống ống kính của máy quay phim đúng lúc nó chạm vào mặt cô. Nhớ tiếng cô nôn ọe.
Rồi: một chiếc chìa khóa tra vào cửa.
Một lát sau đó. Gió. Một tiếng ho. Một tiếng khạc từ trong họng.
“Em ổn chứ?” Rhyme gọi.
Amelia Sachs rẽ vào trong phòng khách, lột áo khoác ngoài. Một chút ngập ngừng. Thêm mấy tiếng ho.
“Em ổn chứ?” anh nhắc lại. “Em có sao không?”
Câu trả lời của cô là tu ừng ực chai nước Thom vừa đưa cho.
“Cảm ơn anh,” cô nói với chàng trai trẻ. Rồi quay sang Rhyme, “Ổn,” giọng trầm hờn dỗi của cô nay càng trầm hơn, hờn dỗi hơn bình thường. “Đại khái thế.”
Rhyme đã biết cô không bị đầu độc. Anh đã nói chuyện với nhân viên y tế chuyên về độc dược trong lúc cô được chở tới Bệnh viện đa khoa Manhattan. Các triệu chứng của cô không giống người bị nhiễm độc, như nhân viên y tế đã báo cáo, và đến lúc chiếc xe cấp cứu tới được Phòng cấp cứu thì cô chỉ còn ho sặc sụa và chảy nước mắt. Trước đó họ đã cho cô rửa mắt mấy lần bằng nước. Nghi phạm đã thiết kế một cái bẫy không nguy hiểm đến tính mạng – nhưng tác hại của nó có thể làm cô bị mù hoặc để lại di chứng ở phổi.
“Nó là gì vậy, Sachs?”
Cô giải thích rằng một cuộc kiểm tra dịch mũi cũng như xét nghiệm máu nhanh đã cho thấy “chất độc” hoá ra là một thứ bụi có ô xít sắt là chủ yếu.
“Gỉ sét à.”
“ Họ nói vậy.”
Việc lột lớp băng dính trên chiếc ống kim loại cũ mà nghi phạm đã dùng để gắn đèn pin vào đã làm bung ra lượng rỉ sét này, khiến chúng rơi vào mặt Sachs.
Là một nhà tội phạm học, Rhyme không lạ gì Fe2O3, thường được biết đến nhiều hơn với cái tên ô xít sắt (III). Rỉ sét là một chất tuyệt vời vì nó có đặc tính bám dính và dễ dàng chuyển từ người thủ phạm sang nạn nhân và ngược lại. Nó có thể làm ngộ độc nhưng chỉ với số lượng cực lớn – hơn 2500mg/m3. Với Rhyme, có vẻ như nó không được sắp đặt để làm vũ khí. Anh đã bảo Pulaski gọi đến phòng công trình công cộng của thành phố để tìm hiểu xem có phải ôxít sắt là thứ thường thấy trong các đường hầm hay không.
“Có,” cảnh sát trẻ báo cáo sau khi cúp máy. “Thành phố đang lắp đặt đường ống khắp Manhattan – vì đường hầm nước mới. Một trong mấy cái ống cũ mà họ đang cắt bỏ có tuổi đời lên đến một trăm năm mươi năm. Thế là có cả đống gỉ sắt. Tất cả công nhân đều phải đeo mặt nạ, nhiều lắm lắm.”
Vậy là nghi phạm chỉ vô tình chọn phải một trong những cái ống cũ để gắn đèn pin vào.
Sachs ho thêm mấy tiếng, uống thêm một hai ngụm nước nữa. “Em bực vì mình đã bất cẩn.”
“À Sachs này, lúc nãy chúng tôi đang chờ một cuộc điện thoại.”
“ Tôi đã cố. Các đường dây đều không gọi được. Một trong các nhân viên y tế đã nói đó là do trục trặc đường truyền Internet làm ảnh hưởng luôn cả hệ thống chuyển tín hiệu viễn thông. Bị như vậy mấy ngày nay rồi. Tranh chấp gì đó giữa các công ty cáp cũ và cáp quang loại mới. Cuộc chiến tranh giành thị phần. Thậm chí còn đến mức phá hoại lẫn nhau.”
Cái nhìn của Rhyme cho thấy anh chẳng quan tâm. Thêm một tiếng ho húng hắng khàn đặc nữa, Sachs mặc bộ đồ phòng thí nghiệm vào và đi đến chỗ các thùng giấy chứa vật chứng.
“Tiếp tục điền các biểu đồ của chúng ta thôi,” Rhyme gật đầu, nhìn vào mấy chiếc bảng trắng lớn đang đứng sừng sững như những chú chim diệc đứng trên mấy cái chân tong teo của chúng. Họ dùng những chiếc bảng này để liệt kê vật chứng trong một vụ án. Chỉ có một tấm bảng có chữ: vụ cướp của giết người gần đây ở gần Toà thị chính. Người đàn ông đã cạo râu kĩ càng để chuẩn bị đi hẹn hò, sau đó bị cướp và bị giết.
Sachs dời tấm bảng ấy ra góc phòng và kéo một tấm trống trơn lên trước, để chính diện. Cô lấy một chiếc bút viết bảng tẩy được và hỏi, “Chúng ta gọi hắn là gì bây giờ?”
“Hôm nay là ngày năm tháng Mười một. Cứ làm theo truyền thống của chúng ta thôi. Nghi phạm số 11-5”
Sachs ho một cái rồi gật đầu và viết bằng nét chữ chính xác của cô:
237 phố Elizabeth
* Nạn nhân: Chloe Moore
Rhyme liếc nhìn tấm bảng trắng. “Giờ hãy bắt đầu điền vào chỗ trống nào.”