T
uy nhiên trước khi họ kịp chuyển sang các vật chứng, chuông cửa lại reo lần nữa.
Với tiếng rú quen thuộc của gió và loạt băng tuyết rơi xuống như đạn từ một khẩu Gatling, cánh cửa mở ra và khép lại. Lon Sellitto bước vào phòng khách, dậm chân hụt khỏi chiếc thảm.
“Thời tiết ngày càng tệ hơn. Trời ạ. Đến là khó chịu.”
Rhyme lờ tịt bản tin AccuWeather ấy. “Có đoạn phim an ninh chưa?”
Anh đang nhắc tới bất kì chiếc máy quay nào trên phố Elizabeth, gần lỗ cống mà thủ phạm đã dùng để thâm nhập vào hiện trường. Và rõ ràng đó cũng là nơi hắn đã nhìn trộm Sachs.
“Không.”
Rhyme nhăn nhó.
“Nhưng có một nhân chứng.”
Lại một cái nhìn chua chát nữa của Rhyme.
“Tôi không trách anh, Linc. Nhưng đó là tất cả những gì ta có. Một anh chàng từ ca trực về nhà đã trông thấy ai đó đứng cạnh lỗ cống khoảng mười phút trước khi 911 nhận được cuộc gọi.”
“Từ ca trực về nhà,” Rhyme đáp lại một cách cay độc. “Vậy là nhân chứng của anh đã rất mệt.”
“Ừ, một nhân chứng đang mệt muốn chết đã trông thấy thủ phạm còn tốt hơn nhân chứng chả mệt mỏi gì nhưng không thấy gì chứ.”
“Trong trường hợp đó thì anh ta không còn là nhân chứng nữa,” Rhyme trả lời. Một cái liếc mắt về phía bảng vật chứng. Rồi: “Lỗ cống đang mở à?”
“Đúng vậy. Có chóp nón màu cam và cả băng ngăn cách quanh nó.”
Rhyme nói, “Đúng như tôi đã nghĩ. Vậy là hắn đã dùng móc cậy nắp lên, đặt chóp nón và trèo xuống, giết nạn nhân rồi bỏ đi.” Anh quay sang Sachs, “Có đất ẩm dưới chân cầu thang, em đã nói vậy phải không? Vậy là hắn đã để cái nắp cống mở trong suốt khoảng thời gian đó. Chuyện gì đã xảy ra với mấy cái chóp và băng dính?”
“Không còn cái nào,” Sachs nói. “Lúc em chui ra thì không.”
“ Hắn sẽ không để nó nằm vất vưởng đâu đó gần đấy đâu. Hắn quá thông minh để có thể dễ dàng giấu nó đi. Lon, nhân chứng của anh nói gì về hắn, thủ phạm ấy?”
“Nam da trắng, đội mũ len trùm đầu, mặc áo khoác tối màu dài ngang đùi. Đeo ba lô đen hoặc màu tối. Không nhìn được nhiều phần khuôn mặt lắm. Gần giống mô tả nhân dạng của kẻ đứng cạnh lỗ cỗng khi Amelia đang khám nghiệm hiện trường bên dưới.”
Kẻ đã nhìn vào Sachs qua cái lỗ cống. Kẻ đã trốn thoát trong đám đông trên phố Broadway.
“Còn vật chứng trên phố?”
“Trong cơn bão như thế ư?” Sachs trả lời.
Thời tiết là một trong những nguồn làm nhiễu vật chứng kinh điển nhất và cũng là một trong những thứ nguy hại nhất. Và ở gần lỗ cống còn có một vấn đề nữa: Dấu chân của các nhân viên cấp cứu và đồ nghề của họ hẳn đã huỷ nốt mọi bằng chứng còn sót lại khi họ vội lao đến đưa Sachs đi sau cái bẫy thuốc độc mà hoá ra lại không phải kia.
“Vậy là chúng ta sẽ huỷ phần hiện trường trên đó và tập trung vào phần dưới lòng đất thôi. Đầu tiên, tầng hầm của cửa hàng?”
Jean Eagleston và đồng sự của chị đã chụp ảnh và kiểm tra tầng hầm cùng phòng để đồ nhỏ mở thông với nó nhưng tìm được rất ít chi tiết. Mel Cooper đang kiểm tra những dấu vết họ thu thập được. Anh ta báo cáo, “Khớp với các mẫu tìm được trong hầm. Không có gì hữu ích ở đó.”
“Được rồi. Câu hỏi lớn là: Kết quả phân tích chất độc sẽ là gì? COD1 là gì?”
1 COD là viết tắt của Cause Of Death, tạm dịch “Nguyên nhân tử vong.”
Họ đã bắt đầu với giả thuyết nguyên nhân tử vong là do chất độc nhưng chưa thể biết chắc được điều đó cho đến khi giám định pháp y hoàn tất bản phân tích. Sachs đã gọi và kêu gào trưởng phòng giám định gửi một bản báo cáo sơ bộ cho họ càng sớm càng tốt. Họ cần cả tên chất độc lẫn thuốc mê dù đó là gì, vì có vẻ như thủ phạm đã tiêm nó vào người Chloe để khống chế cô. Sachs đã đánh động tính khẩn cấp của vụ việc bằng cách chỉ ra rằng họ tin vụ giết người này chỉ là khởi đầu của một chuỗi án mạng liên hoàn. Cô báo lại rằng giám định viên có vẻ mệt mỏi y như các bác sĩ vậy, đặc biệt là những bác sĩ của thành phố, nhưng anh ta đã hứa sẽ ưu tiên trường hợp Chloe Moore lên hàng đầu.
Một lần nữa tỏ ra sốt ruột, Rhyme nói, “Sachs, em có dùng gạc thấm chỗ hình xăm đó không?”
“Tất nhiên.”
“Chạy cái đó xem Mel, xem thử chúng ta có biết trước được chất độc là gì không.”
“Được rồi.” Công cụ Cooper dùng cho phân tích này là máy quang phổ khí – hai thiết bị lớn nối liền với nhau đang nằm ở một góc phòng khách. Phần quang phổ khí của thiết bị này phân tích một mẫu dư chất chưa biết bằng cách tách từng hoá chất bên trong nó dựa trên tính chất dễ bay hơi - tức là khoảng thời gian nó bốc hơi. Máy quang phổ khí phân tách các chất thành phần; còn bộ phận khối phổ thì định danh các hoá chất bằng cách so sánh cấu trúc riêng của chúng với một cơ sở dữ liệu về các hoá chất đã biết.
Khởi động cỗ máy ồn ào, nóng rực ấy – chính xác thì các mẫu vật sẽ bị đốt – Cooper nhanh chóng thu được kết quả.
“Cicutoxin1.”
1 Một hợp chất có độc trong tự nhiên tìm thấy ở họ thực vật Apiaceae, bao gồm cây độc cần mọc dưới nước (chi Cicuta) và cỏ muỗi (Oenanthe Crocata).
Khi còn làm trưởng bộ phận Các nguồn tư liệu điều tra – tên cũ của Phòng Hiện trường tội ác – Rhyme vẫn thi thoảng dùng tới một cơ sở dữ liệu sâu rộng về chất độc của NYPD, dù các vụ án mạng bằng chất độc khi ấy đã là hiếm, giờ thậm chí còn ít hơn. Cooper kéo xuống xem chi tiết về loại chất này. Anh ta trích đọc: “Có trong cây thủy độc cần. Tấn công trung khu thần kinh. Cô ấy chắc đã phải trải qua cơn buồn nôn nghiêm trọng, nôn mửa, chúng ta có thể thấy cả sùi bọt mép nữa. Cơ bắp co thắt.” Anh ta nhìn lên. “Nó là một trong những loài thực vật chết chóc nhất trên toàn Bắc Mĩ.”
Anh ta nhìn chiếc máy, gật đầu. “Và nó đã được chưng cất. Hồ sơ không hề ghi nhận một lượng chất cô đặc nào như vậy trước đây cả. Thường thì sau khi nó phát tác phải mất một thời gian nạn nhân mới chết. Còn ở mức độ này? Cô ấy chết chỉ trong có nửa giờ, có thể là lâu hơn.”
“Còn có một ông Hi Lạp nổi danh nào đó tự sát bằng cây này rồi đúng không?” Pulaski hỏi.
Cooper nói. “Không hẳn. Một loại độc cần khác. Mặc dù cả hai đều nằm trong họ cà rốt.”
“Ai quan tâm đến Socrates cơ chứ?” Rhyme quát. “Tập trung vào đây này. Có ai khác, ngoài tôi, cảm thấy nguồn chất độc này rất đáng ngại không?”
Sachs nói, “Hắn có thể tìm thấy nó trong bất kì cánh đồng hay đầm lầy nào trên cả nước.”
“Chính xác.”
Một chất hóa học thương mại có độc, chẳng hạn những thứ được dùng trong các quy trình công nghiệp và có thể mua bán dễ dàng trên thị trường mở có thể bị lần theo tới tận nhà sản xuất và từ đó tới người mua. Thậm chí vài chất còn có hẳn chỉ dấu hóa học có thể dẫn các nhà điều tra tới tận tờ hóa đơn có tên thủ phạm trên đó. Nhưng việc ấy sẽ không xảy ra nếu hắn đào vũ khí của mình từ dưới đất lên.
Không tài nào khoanh vùng hẹp hơn các vùng miền trong đất nước được. Và vì giờ đang là tháng Mười một, nên có thể hắn đã đào loại cây này từ lâu rồi. Hay thậm chí còn tự trồng lấy trong một nhà kính dưới tầng hầm.
Điều đáng lo ngại không kém là bằng cách nào đó hắn đã có thể chưng cất nó để tạo ra một dạng độc dược chết người.
Ron Pulaski vô tình đang đứng cạnh chiếc bảng trắng. Rhyme bảo cậu ta, “Thêm cái đó vào danh sách bằng chữ viết tay rõ ràng của cậu đi, lính mới. Chắc các sơ ở Nhà thờ Trái tim Hoài nghi sẽ cực kì tự hào đấy.”
Lúc này tâm trạng của Rhyme đã cải thiện đáng kể khi có nhiều thử thách phải đối mặt, nhiều bí ẩn phải khám phá… và họ còn có chút bằng chứng để tìm hiểu nữa.
Sachs nói tiếp, “Nào, chúng ta không có các đường vân đâu.”
Rhyme cũng không mong đợi họ có dấu vân tay. Không, thủ phạm quá thông minh nên việc đó là dễ hiểu.
“Liên quan đến lông tóc – em có tìm thấy ít lông chuột và tóc của Chloe, nhưng không có gì khác, nên em đoán đồ trùm tóc không chỉ là mũ len đâu.”
Những chiếc mũ khít chặt thường làm rơi tóc ra nhiều hơn là giữ chúng lại, đặc biệt là mũ làm từ len hay sợi ni lông, bởi vì người mang thường có xu hướng gãi hoặc xoa các chỗ ngứa ngáy. Rhyme đoán thủ phạm đã biết điều này và dùng những cách phòng ngừa khác, cẩn thận hơn để giữ cho các mô và bằng chứng ADN không bị rơi ra ngoài hiện trường.
Cô nói tiếp, “Giả thuyết tấn công tình dục ban đầu đã bị gạch bỏ - mặc dù có thể bên giám định pháp y có thể sẽ tìm được gì đó khác. Nhưng bộ phận sinh dục và các chỗ kín khác dường như chưa hề bị chạm vào. Ngoài phần bụng của cô gái” – cô hất cằm về phía những tấm ảnh - “cô ấy vẫn mặc nguyên quần áo. Nhưng khi em chiếu đèn ALS vào người nạn nhân, em phát hiện một điều khá thú vị: hắn đã chạm vào da cô ấy ở hàng chục chỗ khác, chọc ngoáy nó. Nhiều hơn là chỉ làm căng nó ra để xăm hình. Và cô ấy cũng có một hình xăm nhỏ trên cổ. Một bông hoa.” Sachs cho chiếu bức ảnh lên một màn hình có độ phân giải cao của Rhyme. “Hắn đã xoa chỗ ấy mấy lần. Việc chiếu đèn cho thấy điều đó.”
“Nhưng không phải là sự đụng chạm kiểu tình dục à?” Sellitto lẩm bẩm.
“Không phải kiểu tình dục truyền thống,” Sachs chỉ ra. “Có thể hắn bị chứng cuồng tín hay quái dâm gì đấy. Ấn tượng của tôi là hắn ham thích làn da của cô ấy. Hắn muốn chạm vào nó. Hoặc bị thôi thúc làm vậy.”
Rhyme nói, “Thôi thúc ư? Nghe có vẻ hơi ám muội với anh, Sachs ạ. Hơi ẻo lả. Ghi nhận nhưng hãy chuyển sang mục khác.”
Họ bắt đầu làm việc với các dấu vết, phân tích các chất mà Sachs tìm được gần thi thể và so sánh chúng với những mẫu đối chứng từ đường hầm, cố phân tách những gì chỉ liên quan tới nghi phạm.
Cooper vẫn để máy quang phổ khí chạy.
“Được rồi, tập hợp lại chúng ta có ôxít nitơ, ôzôn, sắt, mangan, níc-ken, bạc, bê-ri-li, hidrocarbon clo hóa, a-xê-ty-len.”
Rhyme gật đầu. “Những chất này ở gần cái xác à?”
“Đúng vậy.” Sachs nhìn một dọc tấm thẻ thứ tự vật chứng của mình, trên đó ghi lại chính xác địa điểm của từng mẫu vật.
“Hừm.”
“Sao thế, Linc?” Sellitto hỏi.
“Những vật liệu này được dùng trong hàn nhiệt. Chủ yếu là hàn xì. Có thể nó rơi ra từ nghi phạm của chúng ta nhưng tôi lại nghĩ nhiều khả năng nó tới từ những công nhân lắp đặt đường ống hơn. Nhưng dù sao chúng ta vẫn cho nó lên bảng.”
Cooper lại chọn một mẫu vật khác. Nó nằm trên sàn gần chân cầu thang dẫn lên nắp cống. Khi việc phân tích mẫu vật này kết thúc, kĩ thuật viên cau mày. “Có thể có gì đó ở đây.”
Rhyme thở dài. Vậy thì nói luôn đi, làm ơn, và cảm ơn anh, nụ cười mệt mỏi của anh đang bảo.
Nhưng Cooper lại không thấy vội. Anh ta cẩn thận đọc khối phổ - bản phân tích dữ liệu từ hai thiết bị.
“Đó là tetrodotoxin.”
Rhyme thấy tò mò. “À, phải, đúng là chúng ta có gì đó ở đây. Một vũ khí gây án khác chăng.”
“Chất độc à, Linc?” Sellitto hỏi.
Mel Cooper nói, “Ồ, chắc chắn rồi. Một chất độc hay ho. Nó có trong buồng trứng của cá nóc, còn gọi là fugu. Đây là một chất độc thần kinh chưa hề có thuốc giải. Khoảng sáu mươi người chết mỗi năm ở Nhật – vì cố tình ăn nó. Nếu dùng liều lượng thấp anh có thể thấy phê… và sống sót để thanh toán hóa đơn. Và vì tính chất của nó, tetrodotoxin còn được gọi là chất độc zombie.”
“Cái gì cơ?” Sellitto hỏi lại, cười phá lên.
“Thật đấy.” Cooper nói thêm, “Giống như trong phim ấy. Ở Caribbean người ta dùng nó để làm giảm nhịp tim và hô hấp tới mức trông họ như đã chết. Rồi họ sống lại. Dù là vì lễ nghi tôn giáo hay để lừa đảo. Các nhà nhân loại học nghĩ nó có thể là nguồn gốc của truyền thuyết zombie.”
“Chỉ là một trò tiêu khiển cho một buổi tối thứ Bảy chậm rãi ở Haiti thôi,” Rhyme làu bàu. “Chúng ta bám vào trọng điểm được không? Tập trung vào thông điệp ấy?”
Cooper đẩy cặp kính lên cao trên sống mũi. “Lượng chất rất nhỏ.”
“Trừ khi bên pháp y tìm được một chút chất này trong máu Chloe, nếu không có thể hắn sẽ định dùng nó cho cuộc tấn công tiếp theo.” Rhyme nhăn mặt. “Và hắn tìm được nó ở chỗ quỷ quái nào chứ? Có khi nào tự câu được một con cá nóc không. Như là tự trồng độc cần. Nói tiếp đi, Mel.”
Cooper đang đọc thẻ thứ tự bằng chứng của Sachs. “Đây là một thứ trong dấu chân – một trong những dấu chân của hắn, tôi đoán vậy, vì nó nằm gần chân cầu thang. Và bị mờ.”
Bao giày…
“Đúng vậy,” Sachs xác nhận. Cooper cho cô xem khối phổ và cô gật đầu, rồi chuyển phân tích từ máy tính lên tấm bảng trắng.
Stercobilin, urê 9,3 g/L, clo-rua 1,87 g/L, natri 1,17 g/L, kali 0,750 g/L, cretinin 0,670 g/L.
“Phân,” Rhyme lẩm bẩm.
“Sao thế?” Pulaski hỏi.
“Không,” Rhyme trả lời. “Theo nghĩa đen ấy. Các chất có trong phân. Sao lại thế? Tại sao lại ở đó? Có suy đoán gì không, các anh các chị?”
“Có ống hệ thống nước thải – chất thải – ngay trên đầu, nhưng em không thấy có nước thải ở trên mặt đất hay trên tường. Có thể nó không tới từ mấy ống nước đâu.”
“Có công viên cho chó nào chăng?” Sellitto gợi ý. “Hoặc hắn sở hữu một con.”
“Làm ơn đi,” Rhyme nói, kiềm chế không đảo mắt. “Những hóa chất này gợi ý đến phân người. Chúng ta có thể phân tích ADN nhưng việc ấy chỉ tổ tốn thời gian. Xin thứ lỗi vì lựa chọn từ ngữ.”
“Đi nặng ngay trước khi tới hiện trường à?”
“Có thể lắm, lính mới à, nhưng tôi đoán là hắn đã đạp phải thứ đó trong hệ thống nước thải ở đâu đó. Tôi nghĩ điều đó cho thấy hắn đã dành rất nhiều thời gian ở dưới lòng đất New York. Đó là bãi săn của hắn. Hắn thoải mái ở đó. Và nếu không tìm được nguồn nào ở hiện trường Chloe Moore, điều đó có nghĩa là hắn đã chọn sẵn vài điểm khác rồi. Và nó cũng cho chúng ta biết hắn đã đi trinh sát các mục tiêu của mình trước.”
Điện thoại trong phòng đổ chuông. Sachs nghe máy. Cô nói chuyện ngắn gọn rồi cúp máy. “Pháp y. Đúng, nguyên nhân dẫn đến tử vong là cicutoxin – và không có tetrodotoxin. Anh nói đúng, Mel ạ: Chất độc này đậm đặc gấp tám lần thứ ta tìm được trong một cái cây tự nhiên. Và hắn đã khống chế cô ấy bằng propofol. Cổ và cánh tay. Hai vết tiêm.”
“Thuốc kê theo đơn,” Rhyme lưu ý. “Người ta không thể trồng cái đó trong vườn sau được. Làm thế nào hắn tiếp cận được nó? Chà, viết nó lên bảng và tiếp tục thôi. Cả hình xăm nữa. Đó mới là thứ tôi thật sự tò mò.”
Rhyme nhìn bức ảnh Sachs đã chụp: dù không có mực nhưng vẫn dễ dàng trông thấy trên nền da đỏ bầm, sưng vù. Một hình ảnh rõ nét hơn hẳn lúc anh nhìn qua máy quay trong cảnh hiện trường mờ tối.
“Trời ạ,” Ron Pulaski thốt lên, “nó đẹp thật.”
“Tôi không biết thế giới xăm trổ như thế nào,” Rhyme nói. “Nhưng tôi tự hỏi có phải chỉ một vài nghệ sĩ mới có thể làm được hình đó trong khoảng thời gian ngắn ngủi hay không.”
“Tôi sẽ thăm vài cở sở lớn hơn trong trung tâm thành phố,” Sellitto nói. “Xem chúng ta có thể tìm được gì.”
Rhyme trầm ngâm, “Hai đường viền kia.” Anh chỉ vào hai đường hình vỏ sò chặn trên dưới hàng chữ. “Em nói đúng, Sachs ạ. Trông chúng như là bị cắt, chứ không phải xăm. Giống như hắn đã dùng một lưỡi dao cạo hay dao mổ vậy.”
Sellitto lẩm bẩm, “Chỉ là hình trang trí chết tiệt thôi. Thằng khốn nạn.”
“Viết lên bảng. Không biết nó là cái gì. Nào, còn từ ngữ: “lần thứ hai.” Nghĩa là gì? Ai có ý gì không?”
“Nạn nhân thứ hai?” Pulaski gợi ý.
Sellitto cười. “Gã này không thực sự che chắn dấu vết gì. Nếu có số một hẳn chúng ta đã nghe nói rồi chứ, mọi người không nghĩ thế à? Cá là CNN sẽ bâu vào ngay.”
“Chắc chắn rồi, đúng thế. Tôi đã không nghĩ tới.”
Rhyme nhìn bức ảnh. “Không đủ để rút ra kết luận ở thời điểm này. Và phần còn lại của thông điệp là gì? Ấn tượng của tôi là nếu một người hiểu biết về thư pháp nhiều đến thế thì hẳn hắn ta cũng biết đánh vần và ngữ pháp nữa. Chữ cái “t” không viết hoa trong từ “the.” Vậy là trước đó còn có gì đấy. Cũng không có dấu chấm hay gì đó đằng sau cụm từ.”
Sachs nói, “Em tự hỏi nó có phải là một câu do hắn tự nghĩ ra không. Hay là câu trích dẫn? Một câu đố?”
“Không có manh mối gì… Lon, bảo ai đó ở trụ sở kiểm tra dữ liệu xem nào.”
“Ý hay đấy. Rất hiệu quả: một đội chuyên trách để tìm “lần thứ hai” trong một cuốn sách hay gì đó? Anh nghĩ nó đã từng xuất hiện bao giờ chưa, Linc?”
“Đầu tiên, chẳng phải mấy cái ngoặc kép tưởng tượng ấy đã bị lạm dụng quá rồi hay sao? Trở lại vấn đề chính: Thế này thì sao? Bảo họ tìm những từ ấy trong các câu trích dẫn nổi tiếng về tội ác, sát nhân, hình xăm, thế giới ngầm New York. Bảo họ sáng tạo lên!”
Sellitto lẩm bẩm, “Được rồi. “Lần thứ hai.” Và cả số luôn – số hai – với hậu tố “nd” nữa.”
“Hừm,” Rhyme lẩm bẩm và gật đầu. Anh chưa nghĩ đến chuyện đó.
Viên thanh tra to béo gọi một cuộc điện thoại, đứng dậy và đi đến góc phòng khách, một lát sau anh ta bắt đầu ra lệnh, sau đó cúp máy và quay lại.
“Tiếp theo nào,” Rhyme nói với những người khác.
Sau khi phân tích thêm mẫu vật nữa, Mel Cooper tuyên bố, “Chúng ta có vài mẫu Benzalkonium Clo-rua.”
“À,” Rhyme nói. “Đó là một chất bậc bốn. Ion Amoni bậc bốn. Một chất diệt khuẩn cơ bản, chủ yếu dùng ở những nơi có nguy cơ đặc biệt cao với việc nhiễm khuẩn và các khách hàng dễ bị tổn thương. Chẳng hạn như căng tin trường học. Viết lên bảng nào.”
Cooper đọc tiếp, “Keo nhựa.”
Rhyme thông báo đó là sản phẩm được dùng trong mọi thứ, từ băng cá nhân đến vật liệu xây dựng. “Loại chung chung đúng không?”
“Đúng.”
“Hiển nhiên rồi,” Rhyme lẩm bẩm. Các nhà khoa học pháp y tất nhiên yêu thích loại dư chất có thương hiệu riêng hơn – dễ dàng lần theo nguồn.
Kĩ thuật viên làm thêm vài kiểm tra khác. Sau vài phút anh ta nhìn màn hình máy tính. “Tốt lắm, tốt. Có kết quả rất rõ rệt về một loại đá cụ thể. Đá cẩm thạch. Cụ thể là loại Inwood1.”
1 Tên một loại đá cẩm thạch được tìm thấy ở phía nam bang New York và phía tây Connecticut.
“Dạng nào?” Rhyme hỏi. “Cho nó lên màn hình.”
Cooper làm theo và Rhyme cùng mọi người nhìn vào một đám bụi và sỏi có đủ hình dạng, màu từ trắng, trắng ngà đến màu be. Kĩ thuật viên nói, “Do nứt gãy. Anh có trông thấy rìa mẩu đá nằm ở góc trên bên tay trái kia không?”
“Chắc chắn rồi,” Rhyme yêu cầu. “Nướng nó đi!”
Kĩ thuật viên cho một mẫu vào máy quang phổ khí. Anh ta tuyên bố, “Có kết quả dương tính với tàn dư của Tovex.”
Sellitto nói, “Tovex ư? Một chất nổ công nghiệp à.”
Rhyme gật đầu. “Tôi đã có cảm giác chúng ta sẽ tìm được một thứ tương tự như thế. Được dùng để làm nổ các nền đá trong lòng đất. Dựa vào thiệt hại ở những vụn đá kia, hẳn là nghi phạm của chúng ta đã nhặt được nó tại hoặc gần một công trường xây dựng. Nơi nào đó có rất nhiều cẩm thạch Inwood. Gọi tới phòng cấp phép dùng chất nổ của thành phố đi, lính mới. Rồi kiểm tra chéo với dữ liệu địa chất ở khu vực đó. Nào, còn gì khác không?”
Những mẩu vụn cạo được dưới các móng tay của Chloe không cho thấy da người, mà chỉ có một loại vải thun màu trắng ngà và sợi giấy.
Rhyme giải thích với Sellitto. “Có thể Chloe đã chống cự hắn và dính phải những thứ đó trong quá trình vật lộn. Rất tiếc vì cô ấy không cào được ít da của hắn. Bằng chứng ADN ở đâu khi ta cần đến nó chứ? Viết lên bảng đi, và giữ nó ở đó.”
Cuộn băng dính mà nghi phạm dùng để trói chân Chloe cũng là loại không nhãn hiệu, cả còng tay cũng vậy. Còn chiếc đèn pin – ngọn hải đăng hé lộ tác phẩm của hắn – thì chỉ là một loại đèn rẻ tiền bằng nhựa. Cả đèn lẫn cục pin loại D bên trong đều không có dấu vân tay nào, hay tóc hay bất kì một loại vật chứng bị bám dính nào hết, chỉ trừ một chút keo giống với loại được dùng trên những cái lăn lông – chính xác là loại mà các cảnh sát hiện trường vẫn dùng để thu nhặt dư chất. Đúng như Sachs đã dự đoán, có thể hắn đã lăn hết người một lượt trước khi đến hiện trường.
“Thằng nhóc này thậm chí còn thông minh hơn tôi nghĩ,” Rhyme nói. Sự buồn bực pha lẫn chút ngưỡng mộ một cách bất đắc dĩ.
“Nào, dưới đó có ổ cắm điện nào không, Sachs? Tôi không nhớ.”
“ Không có. Đèn rọi mà các cảnh sát đầu tiên đến hiện trường đã dựng nên là đèn chạy ắc-quy.”
“Vậy thì súng xăm của hắn cũng chạy bằng pin. Lính mới – lúc nào tìm hiểu xong về đá cẩm thạch thì cậu tìm luôn những nhà sản xuất súng xăm chạy pin nhé.”
Pulaski lại lên mạng, vừa làm vừa nói, “Hi vọng là chúng khá hiếm.”
“Thế thì việc tìm kiếm sẽ khá thú vị đấy.”
“ Sao cơ?”
“Tìm một khẩu súng xăm chứa đầy hi vọng.”
“ Chứa đầy cái… gì cơ?”
Sellitto đang cười chua chát. Anh ta biết chuyện gì sắp đến.
Rhyme nói tiếp, “Ý của từ “hi vọng là” là thế mà. Câu cậu vừa nói không phải là “tôi hi vọng súng xăm cơ động là loại khá hiếm.”
Dùng “hi vọng là” đứng độc lập đầu câu – một ý kiến chủ quan của người nói – là cách hành văn không chính thống. Các giáo viên tiếng Anh và nhà báo không tán thành đâu.”
Cảnh sát trẻ lắc đầu. “Lincoln, đôi khi tôi nghĩ mình vừa bước vào một bộ phim của Quentin Tarantino khi nói chuyện với anh.”
Cặp lông mày của Rhyme cong lên. Ra hiệu nói tiếp đi.
Pulaski càu nhàu, “Anh biết đấy, cái cảnh quay hai tay súng chuẩn bị thổi tung một ai đó nhưng họ cứ đứng mà nói mãi đến mười phút về việc “háo hức” và “bồn chồn” không đồng nghĩa như thế nào, hay “vô tâm” và “không quan tâm” không phải là một như thế nào. Anh chỉ muốn tát vào mặt họ.”
Sachs ho khục một tiếng để che tiếng cười.
“Hai cách dùng sai từ ấy cũng làm tôi bực mình không kém,” Rhyme lẩm bẩm. “Và cậu cũng biết phân biệt chúng là giỏi đấy. Giờ đến mẩu bằng chứng cuối cùng. Đó là thứ tôi quan tâm nhất.”
Anh quay lại với túi vật chứng, lòng thầm nghĩ mình phải tìm hiểu cái tay Tarantino này mới được.