M
el Cooper cẩn thận mở túi vật chứng duy nhất còn lại trên bàn giám định. Dùng một cây nhíp, anh ta lôi ra một quả bóng giấy bị vò nhàu. Anh ta bắt đầu mở nó ra. Thật chậm.
“Nó nằm ở đâu, Amelia?” anh ta hỏi.
“Cách thi thể khoảng chín mươi centimet. Dưới một trong mấy cái hộp màu vàng ấy.˝
“Tôi đã trông thấy chúng,” Rhyme nói. “IFON. Dây điện, cáp điện thoại, tôi đoán vậy.”
Tờ giấy tới từ phần góc trên của một cuốn sách nào đó, đã bị xé ra. Bề ngang khoảng bảy phân, dài năm phân. Hai từ nằm trên mặt trước của trang sách bên tay phải là:
ies
rằng tài năng lớn nhất của anh ta là khả năng dự đoán
Ở mặt còn lại:
thi thể đã được tìm thấy.
Rhyme nhìn Cooper, anh ta đang dùng một chiếc kính hiển vi Bausch + Lomb để so sánh các sợi bột giấy trong vật chứng này với mẫu tìm thấy dưới móng tay nạn nhân.
“Chúng ta có thể kết nối chúng. Có lẽ là từ cùng một nguồn. Và tại hiện trường cũng không có mẫu sợi vải nào giống như thứ nằm dưới móng tay cô ấy cả.”
“Vậy giả thuyết ở đây là cô ấy đã xé mẩu giấy kia trong lúc vật lộn với hắn.”
Sellitto hỏi, “Sao hắn lại mang nó đi cùng nhỉ? Nó là cái gì?”
Rhyme nhận xét tờ giấy này không được tráng phủ, như vậy nó không phải là từ một tạp chí. Cũng không phải báo in, nên nguồn gốc của nó có lẽ cũng không phải từ một tờ nhật báo hay tuần báo hay tin tức gì cả.
“Có thể nó tới từ một cuốn sách,” anh tuyên bố lúc nhìn chằm chằm vào mẩu giấy hình tam giác.
“Sự việc lúc ấy phải như thế nào chứ?” Pulaski hỏi.
“Hỏi hay lắm: Ý cậu là nếu mẩu giấy kia nằm trong túi áo của nghi phạm và cô gái đã giật nó ra trong lúc túm lấy hắn, làm thế nào nó lại là một trang trong sách được đúng không?”
“Đúng vậy.”
“Bởi vì tôi nghĩ hắn đã cắt những trang quan trọng khỏi một cuốn sách và mang chúng theo mình. Tôi muốn biết mẩu giấy ấy từ đâu mà có.”
“Cách dễ nhé?” Cooper gợi ý.
“Ồ, Google Books? Đúng rồi. Hay bất kể nó được gọi là gì, cái dịch vụ trực tuyến đó có lưu trữ chín mươi phần trăm số sách trên toàn thế giới hay đại loại thế trong cơ sở dữ liệu của nó ấy. Chắc chắn rồi, thử xem sao.”
Nhưng không có gì ngạc nhiên khi cuộc tìm kiếm không cho kết quả gì. Rhyme không biết nhiều về luật bản quyền nhưng anh nghi ngờ vẫn còn kha khá tác giả được Luật của Mĩ bảo vệ và họ không muốn chia sẻ công sức lao động sáng tạo vất vả của mình hoàn toàn miễn phí.
“Thế là phải tìm theo cách khó rồi,” Rhyme tuyên bố. “Bọn họ gọi cái mà trong việc hack máy tính là gì ấy nhỉ? Tấn công cưỡng chế à?” Anh nghĩ ngợi một lát rồi nói thêm, “nhưng có thể chúng ta sẽ thu hẹp được phạm vi tìm kiếm. Hãy xem liệu ta có thể tìm ra nó được in từ khi nào và bắt đầu với những cuốn sách được xuất bản quanh khoảng thời gian ấy và có đề tài tội phạm không. Từ “những thi thể” là một gợi ý ở đây. Nào, hãy tìm lấy một ngày.”
“Tính tuổi bằng carbon à?” Ron Pulaski hỏi và làm Mel Cooper mỉm cười. “Sao nào?” cảnh sát trẻ hỏi.
“Cậu chưa đọc chương carbon phóng xạ của tôi đúng không, lính mới?” Anh đang nhắc tới cuốn sách về khoa học pháp y của mình.
“Thực ra là tôi đọc rồi, Lincoln.”
“Và?”
Pulaski trích dẫn, “Xác định tuổi bằng carbon là việc so sánh carbon 12 không phân rã với carbon 14 có phân rã, từ đó cho phép đoán định tuổi của vật thể được kiểm tra. Tôi nói “đoán định”; tôi nghĩ ý anh muốn nói là “xấp xỉ”.”
“À, trích dẫn chuẩn đấy. Chỉ có điều rất tiếc là cậu đã bỏ qua phần chú thích.”
“Ồ. Có chú thích à?”
“Sai số trong việc xác định tuổi bằng carbon là từ ba mươi tới bốn mươi năm. Và đó chỉ là với những mẫu gần đây. Nếu thủ phạm của chúng ta mà mang theo một chương sách in trên giấy papyrus hay da khủng long, dung sai còn lớn hơn nữa.” Rhyme chỉ về phía mẩu giấy. “Vì vậy mà định tuổi bằng carbon không dành cho chúng ta.”
“ Ít nhất nó cũng cho chúng ta biết có phải cuốn sách đã được in trong vòng ba bốn mươi năm trở lại đây không.”
“À, chúng ta biết chứ,” Rhyme gắt. “Nó đã được in hồi những năm chín mươi, tôi gần như chắc chắn. Tôi chỉ muốn thứ gì đó cụ thể hơn.”
Đến lượt Sellitto cau mày. “Làm sao anh biết đến tận thập kỉ như thế, Linc?”
“Phông chữ. Nó được gọi là Myriad. Do Robert Slimbach và Carol Tombly sáng tạo cho Hệ thống Adobe. Nó đã trở thành phông riêng của Apple.”
“Với em trông nó chả khác gì các loại chữ trong hệ chữ sans serif khác,” Sachs nói.
“Nhìn đuôi chữ “y” và chữ “e” hơi nghiêng đi.”
“Anh nghiên cứu cả cái đó ư?” Pulaski hỏi, như thể một lỗ hổng lớn trong kiến thức tội phạm học của cậu ta đang đe doạ nuốt chửng cả con người cậu.
Nhiều năm trước Rhyme từng điều tra một vụ bắt cóc, khi đó thủ phạm làm giấy đòi tiền chuộc bằng cách cắt từng chữ cái trong một tờ tạp chí ra. Hắn cũng dùng cả chữ cái trong dòng tiêu đề của biên tập viên lẫn trong các quảng cáo. Sau khi so sánh phông chữ từ hàng chục tạp chí và các nhãn hàng quảng cáo khác, Rhyme đã kết luận được nó tới từ một ấn bản đặc biệt của tờ Atlantic Monthly. Một lệnh đòi danh sách những người đặt mua – kèm theo vài bằng chứng khác – đã dẫn dắt cảnh sát tới cửa nhà thủ phạm và giải cứu được nạn nhân. Anh giải thích lại sự việc với Pulaski.
“Nhưng làm thế nào chúng ta xác định được tuổi của nó cụ thể hơn?” Sellitto hỏi.
“Mực,” Rhyme nói.
“Nhãn?” Cooper hỏi.
“Tôi không nghĩ vậy.” Từ những năm 1960 các nhà sản xuất mực đã bắt đầu gắn thêm nhãn hoá học - những chỉ dấu hoá học, giống như cách các nhà sản xuất thuốc nổ đã làm - để nếu xảy ra một tội ác, mẫu mực in sẽ dễ dàng bị lần tới một nguồn duy nhất hay ít nhất là một nhãn hiệu của mực hay bút mực ấy (Mục đích ban đầu của việc gắn nhãn là để lần theo những vụ lừa đảo, dù các chỉ dấu ấy cũng đã giúp bắt được vô số kẻ bắt cóc và sát nhân điên loạn, những kẻ để lại lời nhắn ở hiện trường phạm tội). Nhưng loại mực dùng để in sách, như trong mẫu vật này, được bán theo từng lô lớn, và chúng hiếm khi, nếu không nói là không bao giờ, được đánh nhãn.
Vì vậy, Rhyme giải thích là họ cần so sánh hỗn hợp mực cụ thể này với những loại khác có trong cơ sở dữ liệu mực in của NYPD.
“Thu lấy mực ấy đi, Mel. Hãy tìm xem nó được sản xuất từ cái gì.”
Từ giá đựng dụng cụ đặt trên dãy bàn khám nghiệm bằng chứng, Cooper chọn một chiếc kim tiêm dưới da đã được điều chỉnh, mũi tiêm của nó đã được mài bớt một phần. Anh ta chọc kim tiêm vào giấy bảy lần. Những vòng tròn nhỏ xíu thu được đều chứa mẫu mực trong đó, anh ta nhúng chúng vào pyridine để chiết xuất lấy mực rồi sấy khô hỗn hợp để thu được dạng bột, sau đó phân tích nó.
Cooper và Rhyme nhìn vào kết quả sắc phổ - một biểu đồ dạng thanh với những đỉnh và đáy đại diện cho loại mực được dùng để in ra cuốn sách bí ẩn nọ.
Bản thân phân tích này không có ý nghĩa gì, nhưng khi cho chạy kết quả trong hệ thống dữ liệu, nó đã cho thấy mực này tương đồng với những loại mực được dùng để in các loại sách người lớn từ năm 1996 tới 2000.
“Người lớn à?” Pulaski hỏi.
“Không, không phải loại sách người lớn của cậu đâu,” Sellitto vừa nói vừa cười.
“Cái gì của tôi…” Cảnh sát trẻ đỏ bừng mặt. “Chờ đã.”
Rhyme nói tiếp, “Nghĩa là để phân biệt nó với các ấn bản trẻ em. Những cuốn sách hợp pháp dành cho người lớn ấy. Còn giấy thì sao? Kiểm tra độ axít xem.”
Cooper dùng một góc nhỏ của tờ giấy để làm phân tích pH cơ bản.
“Độ axít cao.”
“Điều đó có nghĩa là nó tới từ một cuốn sách bìa cứng thương mại, được sản xuất hàng loạt – không phải loại bìa mềm vì bìa mềm in trên giấy báo cơ. Và nó là sách thương mại vì những cuốn phiên bản giới hạn đắt tiền hơn thường được in trên loại giấy độ axít thấp hoặc không có axít.˝
“Hãy thêm cả mục đó vào danh sách những việc đội anh cần làm đi, Lon. Tìm cuốn sách. Tôi nghiêng về giả thuyết sách phi hư cấu, thuộc khoảng thời gian vừa nói. Có thể là sách tội ác có thật. Và mỗi chương liên quan đến một chủ đề khác nhau, vì hắn chỉ xé ra phần duy nhất hắn cần. Hãy cho người của anh bắt đầu tìm kiếm thông tin từ các biên tập viên, các cửa hàng sách, những người sưu tập sách tội phạm… và cả những nhà văn chuyên viết về tội ác có thật nữa. Tổng cộng cũng có bao nhiêu người đâu?”
“Vâng, vâng, họ sẽ làm thế trong suốt khoảng thời gian rảnh rỗi khi không phải đọc cả ngàn tỉ trích dẫn có từ “lần thứ hai” ấy nhỉ.”
“À nhân tiện, anh phải ưu tiên việc đó nhé. Nếu nghi phạm của chúng ta đã phải vất vả đến thế để đi tìm một bản in của một cuốn sách, rồi lại cắt vài ba trang trong đó và mang theo người, tôi thực sự muốn biết cuốn sách đó viết gì đấy.”
Vị thanh tra to béo nhìn vào bức ảnh chụp hình xăm một lần nữa. Anh ta bảo Cooper, “Cậu in cho tôi một tấm nhé, Mel? Tôi sẽ bắt đầu hỏi thăm mấy tiệm xăm – có phải họ vẫn dùng từ ấy không nhỉ? Hay là “studio” rồi. Và lấy cho tôi danh sách các tiệm to ấy.”
Rhyme nhìn Cooper in bức ảnh rồi lên mạng để truy cập phòng đăng kí kinh doanh của Thành phố New York. Anh ta tải về một danh sách gồm khoảng ba mươi cơ sở kinh doanh hình xăm. Cooper đưa nó cho vị thanh tra.
“Nhiều thế cơ à?” Sellitto làu bàu. “Tuyệt thật. Tôi thật không thể ra ngoài đủ nhiều trong những ngày mùa thu tuyệt đẹp này.” Anh ta ném danh sách và bức ảnh hình xăm kia vào trong cặp. Mặc áo khoác Burberry và lôi đôi găng tay lót lông từ trong túi áo ra. Anh bỏ ra khỏi phòng mà không chào hỏi gì. Một lần nữa Rhyme thoáng nghe tiếng gió rít khi cánh cửa mở ra và đóng sầm lại.
“À, lính mới, vụ đá cẩm thạch thế nào rồi?”
Cảnh sát trẻ quay sang một chiếc máy tính gần đó. Cậu ta đọc màn hình. “Vẫn đang kiểm tra các giấy phép cho nổ đá. Đợt này, họ đang cho phép thổi tung rất nhiều thứ trong thành phố.”
“Cứ làm tiếp nhé.”
“Chắc rồi. Tôi sắp có vài câu trả lời rồi.” Cậu ta quay lại nhìn Rhyme. “Hi vọng là thế.”
“Hi vọng là?” Rhyme cau mày.
“Vâng. Tôi tràn ngập hi vọng rằng tôi sẽ không nhận thêm bất kì bài học ngữ pháp chết tiệt nào nữa từ anh, Lincoln.”
237 Phố Elizabeth
* Nạn nhân: Chloe Moore, 26
- Có thể không có liên quan gì với Nghi phạm
- Không bị tấn công tình dục, nhưng có đụng chạm da thịt
* Nghi phạm 11-5
- Nam da trắng
- Khổ người gầy đến trung bình
- Mũ len trùm đầu
- Áo khoác tối màu dài đến giữa đùi
- Ba lô tối màu
- Mang bao giày
- Không dấu vân tay
* COD: Bị đầu độc bằng cicutoxin, thâm nhập cơ thể qua hình xăm
- Xuất phát từ cây thuỷ độc cần
- Không rõ xuất xứ
- Cô đặc, cao gấp tám lần bình thường
* Bị khống chế bằng propofol
- Thu được như thế nào? Có cách tiếp cận với các nguồn cung của ngành y?
* Bị xăm cụm “lần thứ hai” bằng hệ chữ tiếng Anh cổ, viền hình vỏ sò
- Là một phần của thông điệp?
- Đội chuyên trách của sở cảnh sát đang kiểm tra điểm này
* Súng xăm di động được dùng làm vũ khí
- Chưa rõ nhãn hiệu
* Sợi vải
- Màu trắng ngà
- Có thể rơi ra từ áo sơ mi của Nghi phạm, bị rách trong lúc vật lộn.
* Trang giấy từ một cuốn sách, tội ác có thật?
- Có thể bị xé ra từ túi áo Nghi phạm trong lúc vật lộn
- Có thể là loại sách bìa cứng sản xuất hàng loạt từ 1996-2000
ies
rằng tài năng lớn nhất của anh ta là khả năng dự đoán
- Trên trang tiếp theo:
thi thể đã được tìm thấy.
* Có thể đã dùng cây lăn có băng dính để lấy hết dấu vết trên quần áo trước khi tấn công
* Còng tay
- Loại thường, không thể truy nguồn
* Đèn pin
- Loại thường, không thể truy nguồn
* Băng dính
- Loại thường, không thể truy nguồn
Các dấu vết tại hiện trường
* Oxit Nitơ, ozon, mangan sắt, niken, bạc, berili, hidrocarbon clo hoá, axeliten
- Có thể là các nguyên liệu trong hàn xì
* Tetrodotoxin
- Độc tố trong cá nóc
- Thuốc độc zombie
- Số lượng rất nhỏ
- Không được dùng cho nạn nhân lần này
* Stercobilin, urê 9,3g/L, clorit 1,87g/L, natri 1,17g/L, kali 0,075g/L, creatini 0,670g/L
- Thành phần của phân người
- Có thể gợi ý đến mối quan tâm/ám ảnh ở dưới lòng đất
- Tới từ địa điểm giết người tiếp theo dưới lòng đất?
* Chất khử trùng benzalkonium clorit
- Iôn Amôni bậc bốn, loại chất sát khuẩn tiêu chuẩn
* Keo nhựa
- Được dùng trong băng cá nhân, xây dựng và nhiều công dụng khác nữa
* Đá cẩm thạch Inwood
- Bụi và các mẩu vụn nhỏ
* Thuốc nổ Tovex
- Có thể từ khu vực đã/đang cho nổ đá